(HBĐT) - Ngôi nhà ấy nằm sâu trong một ngõ nhỏ, ngoằn ngoèo nối liền xóm Bờ với xóm Bai của làng quê. Mảnh vườn nằm lút trong vườn cây ăn quả um tùm nên lúc nào cũng mang vẻ u tịch và có phần xa cách cuộc sống bên ngoài.
Bà trẻ bây giờ xấp xỉ tuổi 60 vẫn còn dáng thon thả, nét đẹp thanh tao của cô gái vùng quê có ruộng vườn trù phù, lắm cây ăn quả và dòng sông, suối xanh mát quanh năm.
Chuyện kể trước đây có nhiều người mê bà lắm nhưng chẳng hiểu sao bà không ưng một người nào cả. Cả làng Nậm này vẫn tấm tắc khen vẻ đẹp thùy mị, nết ăn, nết ở và chăm chỉ công việc của bà. Bà sinh ra đã mang cái tên giản dị, nôm na mà nhẹ nhàng được mẹ cha đặt cho là cái Vừng ở làng Nậm. Trong đám trai làng đã có câu vè:
“Làng Nậm có cô tên Vừng
Gặp người đẹp ấy, ngập ngừng bước chân”.
Người già trong làng kể lại chuyện xưa - mẹ cô mang thai lúc lên nương tra vừng, kinh nghiệm nhà nông “đom đóm bay ra, hoa gạo rụng xuống là ta tra vừng”. Bà trở dạ sinh ra cô con gái kháu khỉnh được mang tên Vừng với ý nghĩa đó rồi lớn lên, cô càng đẹp, nước da trắng trẻo, khuôn mặt bầu bĩnh cùng với đứa em trai, thằng Lạc.
Bố mẹ mất, hai chị em chăm nuôi nhau rồi cũng nhờ mảnh vườn, ngôi nhà và mấy sào ruộng đỡ đần nên cũng học hành đến nơi, đến chốn. Cậu em tốt nghiệp ra trường, công tác một cơ quan trên tỉnh. Còn cô học xong cao đẳng sư phạm, về quê dạy học cho bọn trẻ. Cô lấy đó làm niềm vui, buổi sáng đến lớp dạy lũ trẻ tập đọc, tập viết, tập múa hát. Chiều ở nhà chăm sóc vườn cây ăn quả.
Cô sống nhân hậu, hay giúp đỡ mọi người xung quanh, có ai túng thiếu cần giúp là cô sẵn sàng, không ngần ngại. Vườn cây có quả chín, cô ngắt cho bọn trẻ trong xóm chúng thích lắm và luôn đến căn nhà cô chơi, vì vậy căn nhà luôn có tiếng cười, tiếng hát líu lo của trẻ con. Cô sống lặng lẽ, giấu kín chuyện đời tư, mãi về sau mới biết là chờ đợi một người lính đi kháng chiến chống Mỹ. Tận ngày thắng lợi, hòa bình đất nước, bạn bè nhập ngũ người về trước, người đi trại điều dưỡng, còn người yêu của bà có giấy báo hy sinh. Cô cắn răng lầm lũi quyết định ở vậy một mình trong ngôi nhà có vườn cây của cha mẹ để lại.
Khi đến tuổi nghỉ hưu, bà giáo Vừng được bà con trong làng, trong xóm cùng bọn trẻ hằng ngày đi vào, đi ra gặp đều gọi bà là bà trẻ của thôn Nậm này thay vì gọi tên tục.
Ngôi nhà cha mẹ để lại nằm lọt thỏm trong khu vườn xum xuê cây trái, bà ở lại thay cậu em công tác trên tỉnh để khói hương ngày giỗ, ngày Tết. Sống ở nông thôn, bà quen công việc của người phụ nữ chân quê, đun nấu đã có lá cây và củi que từ những cành cây khô chặt tỉa trong vườn. Thực phẩm, gạo, nước, bà đã có đồng lương hưu của Nhà nước cấp. Thêm vào đó là khoản tiền thu được từ bán rau, trái vườn nhà nên cuộc sống không đến nỗi thiếu thốn.
Gian bếp nhỏ bé của bà lúc nào cũng thơm mùi lá, khói bếp thơm ngây ngất đến lạ lùng khiến trẻ con trong xóm Nậm hay chạy sang sưởi những buổi chiều đông lạnh giá. Bà rất yêu quý bọn trẻ. Bà quý, thương bọn trẻ như con cháu trong nhà. Vì vậy, sẵn bếp than đỏ, bà nướng cho chúng củ sắn, bắp ngô, ngồi bên bếp lửa, má đứa nào cũng đỏ hồng, tươi rói, ánh mắt long lanh, nụ cười hồn nhiên. Có đứa mặt lấm lem than bếp, nở nụ cười răng sứt mà sao thân thương đến vậy. Chúng nó vừa ăn, vừa cười rúc rích, vừa gọi, vừa khoe với bà trẻ:
- Sắn ngon bùi, ngô ròn thật bà trẻ ạ!
Bà trẻ nhìn lũ trẻ mà lòng lại thổn thức một nỗi niềm riêng tư ấp ủ trong lòng.
Bà con trong xóm vẫn nhớ mùi hương thơm mà bà thường đốt trên bàn thờ đặt trên trụ gạch xây đặt ngoài sân vườn. Bên cạnh cây hoa ngọc lan tự tay bà trồng phảng phất mùi thơm đậm chất linh thiêng, nơi cõi hư vô. Những buổi tối như vậy, bà thường bày ít hoa quả hái trong vườn đơn sơ mà thanh tịnh đầy ắp lòng thành. Ai hỏi bà việc thờ cúng, bà chậm rãi:
- Đấy là thờ dành cho người ở xa.
Bà thường đứng rất lâu trong gió lạnh giữa mùi trầm hương huyền hoặc. Bóng bà mờ nhạt trong vườn cây um tùm chiều đêm về nhạt nhòa tối thẫm dần trong màn đêm.
Hàng năm, bà trẻ nhớ về mỗi dịp ngày 27/7 (ngày thương binh - liệt sĩ), ngày 30/4 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước hay ngày rằm tháng 7, ngày “xá tội vong nhân”, bà trẻ lại trân trọng đặt lên bàn thờ trước sân đĩa hoa quả thêm ấm chè thơm và đặc biệt có gói thuốc lá, chiếc bật lửa. Trong tâm tư bà nghĩ, người ở xa có về thì vẫn thích nước chè và thuốc lá thơm rồi bà chắp tay miệng lầm rầm trong không gian tĩnh lặng của mảnh vườn, ngôi nhà nhỏ đầy ắp kỷ niệm quê hương.
Mãi về sau mới biết - bà giấu nỗi buồn sâu kín trong lòng bởi qua nhiều năm tìm kiếm vẫn không có tin tức gì về nấm mộ của người liệt sĩ hy sinh trong dịp tổng tấn công qua Xuân Lộc vào giải phóng Sài Gòn đã được chôn cất ở tận phương nào?
Thời gian trôi, bà trẻ ngày thêm già, bọn trẻ trong làng, trong xóm lớn lên, đứa đi học xa, đứa đi nghĩa vụ ra canh giữ biển khơi hay lên biên cương bảo vệ biên giới. Ngôi nhà vắng dần tiếng lũ trẻ rồi một buổi chiều đông lạnh sau một cơn đau đột ngột, bà đã ra đi với sự thương tiếc của người thân và bà con lối xóm. Bà về với tổ tiên, khuôn mặt thanh thản.
Bà trẻ ra đi trong tâm thế của người được về với những điều đã mất. Không hiểu sao, nhìn bà rồi nghĩ một nơi nào đó không xa có một người lính già đang chờ, đang đợi ở cuối con đường để dắt tay bà đi khi họ đã hẹn ước chờ nhau đến chân trời tâm linh chỉ có sự đợi chờ thủy chung.
Truyện ngắn của Văn Song