(HBĐT) -Trên thực tế, lang - đạo nhất là lang kun chúa đất có những đặc quyền như sau:

 

Là no  - làm no: Các lang kun ở làng Mường Chiềng có nhiều đất ruộng, song ở các làng trại lang vẫn có ruộng của mình ở đó, thường là các thửa ruộng bằng phẳng, rộng rãi và rất thuận nước tưới tiêu. Các ruộng này được người Mường gọi là: Nà no lang (ruộng no của lang). Do nắm giữ nhiều ruộng đất, trong khi đó, số nhân khẩu trong nhà lang - đạo lại có ít, do đó để có nhân công lao động làm ra sản phẩm trên ruộng đất của mình, nhà lang thực hiện chế độ làm xâu, làm no cho lang. Các ruộng no này do các ậu chăm nom quản lý và điều hành việc canh tác, thu hoa lợi về cho lang. Người dân tại các mường đó mang trâu, bò, công sức của mình để cày cấy, đến lúc thu hoạch mang về cho nhà lang. Có một số nơi lang cho "khoán gọn” cho một số chức sắc nào đó tổ chức dân mường đi làm, sau đó thu hoa lợi nộp một phần nào đó cho nhà lang theo kiểu thu phần trăm, đó là một dạng phát canh thu tô, cách mà Trần Từ đã mô tả trong công trình ruộng lang.   

Là xâw - làm xâu: Đất ruộng cấy của lang kun ở cánh đồng Mường Chiềng ngay cả người Mường Chiềng cũng không đủ nhân lực, công sức nên phát sinh ra tục làm xâu, tức là dân Mường ở các làng Mường trại phải mang trâu, bò, cày, bừa và cả nhân lực bỏ sức ra đi làm ruộng, cày, cấy, thu hoạch... cho lang. Đây gọi là đi làm xâu. 

Đi phiên  - đi phiên: Không chỉ phải làm ruộng cày, cấy cho lang, trong các nhà lang kun còn có rất nhiều công việc khác như dựng nhà, sửa nhà, rào dậu, canh cổng, chặt cây, đám cưới, đám ma, đắp mường, đóng bai xe nước... tất cả những việc đó dân các mường phải làm. Việc cắt cử luân phiên các làng mường này, làng mường khác được các ậu phân ra từng phiên, từng mường. Chức sắc trong các mường lại phân cắt phiên tới từng nhà nóc. Hình thức lao công tạp dịch loại này được gọi là đi làm phiên cho nhà lang.   

Thu lụch - thu lụt: là một hình thức lang - đạo chiếm đoạt tài sản của người dân theo dạng ăn cướp trắng trợn. Hình thức rất đau thương, tàn khốc. Trong lãnh địa nhà lang nếu có nhà ai đó không đẻ được con trai nỗi dõi hoặc chỉ đẻ được con gái, khi cha mẹ nhà đó chết đi, toàn bộ tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, đất đai sẽ bị nhà lang thu trắng.   

Tệ thu lụt trước nhằm mục đích khuyến khích các nhà nóc đẻ con trai với mục đích có thêm suất đinh để lo bảo vệ mường, sau biến thái thành một loại hủ tục do nhà lang lộng quyền dựa cơ để cướp của dân nghèo. 

"Những gia đình nông dân khi qua đời không có con trai nối dõi bị lang thu tài sản theo phương thức kuố đồng chiê ba, của nhà chiê đôi (của đồng chia ba, của nhà chia đôi). Sau đó còn phải mang lễ vật, bao gồm con lợn 4 chít (khoảng 40 kg), 100 đấu gạo, 1 chum rượu và phải lạy trước bàn thờ tổ tiên nhà lang mới được công nhận xong tội vạ không có con trai. Riêng Quách Hàm (lang kun Mường Vang) đã thu lụt của 18 gia đình, chiếm 1.208 bó mạ tư điền. Lang đạo Quách Thấm (em trai Quách Hàm) thu lụt nhà bà Bùi Thị Ri chiếm đoạt 530 bó mạ tư điền vì tội không có con trai nối dõi..." (Lịch sử Đảng bộ huyện Lạc Sơn - tập I - Huyện ủy Lạc Sơn xuất bản năm 1996).

Phat wa - phạt vạ: Phạt vạ là một đặc quyền của nhà lang, với người dân chỉ cần có chút lỗi nhỏ với nhà lang đều bị lang bắt phạt vạ, nhẹ thì thu gà, lợn, nặng thì thu trâu, bò hoặc ruộng đất... Các tội như: trộm cắp, chửa hoang, vi phạm việc bảo vệ rừng, đánh cá các vùng sông, suối bị cấm... hay những vi phạm rất nhỏ, rất phi lý cũng bị lang bắt phạt vạ.   

"Gia đình ông Bùi Văn Kiệt, Bùi Văn Nhung, xóm Vó, xã Nhân Nghĩa, huyện Lạc Sơn chẳng may con gái hoang thai, bị lang kun Mường Vó là Quách Miễn bắt nộp đủ 27 con trâu, bò, bị thu lụt hết tài sản và 4.330 bó mạ tư điền” (Lịch sử Đảng bộ huyện Lạc Sơn” - tập I - Huyện ủy Lạc Sơn xuất bản năm 1996). 

Những chuyện phạt vạ xảy ra không hiếm trong xứ Mường dưới chế độ lang - đạo trước cách mạng tháng 8/1945. 

Cách phạt vạ như trên không theo một quy định nào, mức độ phạt rất tùy tiện... đều xuất phát từ miệng của lang và các chức sắc giúp việc cho lang đều rất nặng nề. 

ăn lề - ăn lề: Đây là một dạng thu phí của nhà lang. Hình thức thu phí có các dạng sau: 

- Nhà ai có người chết muốn tổ chức tang lễ phải có trâu, bò làm mo mới được phép tổ chức làm tang lễ. Khi mổ trâu, bò, lợn... đều phải biếu lang toàn bộ một đùi kể cả da, xương, thịt, chân... Kèm theo đó có một mâm biếu, trên mâm mỗi một bộ phận thịt con vật phải có đủ: Trâu 9 miếng, bò 7 miếng, lợn 5 miếng... Nếu thiếu lang sẽ phạt vạ, nếu thiếu miếng thịt trâu phạt bằng trâu, cũng như thế đối với bò và lợn. 

- Bất cứ ai đi rừng săn được con thú gì như: hươu, nai, hoẵng... đều phải biếu nhà lang một đùi kể cả da, xương, thịt, chân...  

Kóp kuố  - đóng góp của cải: Khi nhà lang có việc làm nhà mới, cưới xin hay tang ma, dân Mường đều phải góp của cung phụng, góp công sức hầu hạ và làm việc cật lực cho nhà lang. Cụ thể "Lang kun Quách Hàm cưới vợ mỗi nhà góp 2 tấm bánh dày và một đồng bạc thật. Bố Hàm chết, dân 5 xã ở Mường Vang góp 53 con trâu, 61 con bò, 169 con lợn và hàng chục tấn gạo. Mỗi ngày có 500 - 600 người đến phục dịch liền trong 12 ngày trời mà vẫn bị lang đánh đập” (Lịch sử Đảng bộ huyện Lạc Sơn” - tập I - Huyện ủy Lạc Sơn xuất bản năm 1996).      

Giai đoạn đầu khi mới hình thành, chế độ lang - đạo còn gần gũi với nhân dân, đóng vai trò như là tù trưởng, thủ lĩnh, phù hợp với trình độ sản xuất, quản lý xã hội khi đó. Trải qua hàng trăm năm, chế độ lang - đạo tập trung cho mình quyền tuyệt đối về sở hữu tư liệu sản xuất, thậm chí cả người dân của mình, dẫn đến độc quyền trong phân phối sản phẩm, độc quyền trong việc đề ra các luật lệ. Dân Mường phải lệ thuộc và trở thành nông nô, lao động cho các nhà lang. Chế độ này dần thoái hóa, trở nên cực kỳ bảo thủ, phản động, cản trở bước tiến của xã hội và dần trở nên mâu thuẫn, đối lập sinh tử với dân Mường và bị đánh đổ trong cách mạng tháng 8/1945.

 

                                                            Bùi Huy Vọng (CTV)

Các tin khác


Thủy điện Hòa Bình - niềm tự hào công trình thế kỷ

(HBĐT) - Xuyên suốt quá trình 135 năm thành lập tỉnh và 30 năm tái lập tỉnh, công trình thủy điện Hòa Bình như một dấu ấn đáng tự hào, ghi dấu mốc son chói lọi trong bản trường ca chinh phục sông Đà, góp sức xây dựng, phát triển quê hương, đất nước.

Những nét khái quát về sự hình thành tỉnh Hòa Bình

(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, có vị trí quan trọng, chiến lược về kinh tế, chính trị, AN-QP... Tỉnh là nơi có nền Văn hoá Hòa Bình nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ.

Tự hào cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910)

(HBĐT) - Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, với truyền thống yêu nước, ngay từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ tại đây, Nhân dân Hòa Bình đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân và chế độ lang đạo hà khắc. Trong dòng chảy lịch sử hào hùng 135 năm thành lập tỉnh, cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910) là một mốc son chói lọi về lòng yêu nước của Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Đảng bộ tỉnh - những mốc son lịch sử

(HBĐT) - Với truyền thống vẻ vang trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh bằng những hành động, việc làm cụ thể, nắm bắt các cơ hội phát triển, trách nhiệm, nỗ lực thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, xây dựng tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

Hòa Bình giai đoạn từ năm 2015 đến nay - những dấu ấn tự hào

(HBĐT) - Từ năm 2015 đến nay, với sự đoàn kết thống nhất, cùng nỗ lực vượt bậc của toàn tỉnh, Hòa Bình tiếp tục thu được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực KT-XH, QP-AN, xây dựng hệ thống chính trị. Kinh tế tăng trưởng khá và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành, lĩnh vực sản xuất đều phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư trong giai đoạn này được đẩy mạnh, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện; kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, quan tâm với nhiều công trình quan trọng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục