(HBĐT) - Ngày 12/6/2018, Quốc hội ban hành Luật Tố cáo, luật gồm 9 chương, 67 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2019. Luật có một số điểm mới cơ bản sau:


1. Bổ sung quy định về tố cáo nặc danh.

Tiếp nhận, xử lý tố cáo nặc danh là nội dung mới được bổ sung tại Điều 25:

- Không xử lý đối với tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ của người tố cáo hoặc qua kiểm tra, xác minh không xác định được người tố cáo, hoặc người tố cáo sử dụng họ tên của người khác để tố cáo, hoặc thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức quy định tại Điều 22 của Luật Tố cáo .
- Tiếp nhận, thanh tra, kiểm tra đối với tố cáo thuộc trường hợp nêu trên nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh.

2. Rút gọn trình tự giải quyết tố cáo.

Tại Điều 28 quy định trình tự giải quyết tố cáo được rút gọn còn 4 bước, thay vì 5 bước như quy định trước đây, gồm: Thụ lý tố cáo; xác minh nội dung tố cáo; kết luận nội dung tố cáo; xử lý kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo.

3. Rút ngắn thời gian giải quyết tố cáo.

Luật Tố cáo năm 2018 quy định thời hạn giải quyết tố cáo là không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo 1 lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc đặc biệt phức tạp có thể gia hạn giải quyết tố cáo 2 lần, mỗi lần không quá 30 ngày.

Luật Tố cáo năm 2011 quy định thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, vụ việc phức tạp là 90 ngày.

4. Cho phép rút tố cáo.

Theo quy định tại Điều 33, người tố cáo có quyền rút toàn bộ hoặc một phần nội dung tố cáo trước khi người giải quyết tố cáo ra kết luận nội dung tố cáo. Trường hợp rút tố cáo mà người giải quyết tố cáo xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ xác định việc rút tố cáo do bị đe dọa, mua chuộc, hoặc người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vụ việc tố cáo vẫn phải được giải quyết.

Người tố cáo rút tố cáo nhưng có căn cứ xác định người tố cáo lợi dụng việc tố cáo để vu khống, xúc phạm, gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi tố cáo của mình, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

5. Quy định rõ về bảo vệ người tố cáo.

Điều 47 quy định rõ về đối tượng, phạm vi bảo vệ người tố cáo: Bảo vệ người tố cáo là việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo.

Khi có căn cứ về việc vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo và người thân của họ đang bị xâm hại, hoặc có nguy cơ bị xâm hại ngay tức khắc hay họ bị trù dập, phân biệt đối xử do việc tố cáo, người giải quyết tố cáo, cơ quan khác có thẩm quyền tự quyết định, hoặc theo đề nghị của người tố cáo quyết định việc áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.

6. Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết tố cáo.

Luật Tố cáo năm 2011 không quy định về điều này. Luật Tố cáo năm 2018 cho phép người giải quyết tố cáo ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo khi cần đợi kết quả giải quyết của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, hoặc đợt kết quả giải quyết vụ việc khác có liên quan, hoặc đợt kết quả giám định bổ sung, giám định lại.

Việc đình chỉ giải quyết tố cáo được thực hiện khi: Người tố cáo rút toàn bộ nội dung tố cáo; người bị tố cáo là cá nhân chết và nội dung tố cáo chỉ liên quan đến trách nhiệm của người bị tố cáo; vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền… 


Minh Phượng (TH)
(Sở Tư pháp)

Các tin khác


Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục