Sáng 24/5, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) được trình tại Quốc hội.
Nhiều ý kiến cho rằng, Luật Quản lý thuế hiện hành triển khai đã
được 13 năm (ban hành luật từ năm 2006) và được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các
năm 2012, 2014 và 2016, bên cạnh việc đạt được kết quả quan trọng đã bộc lộ những
hạn chế, bất cập, đặt ra yêu cầu cần được sửa đổi.
Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban
Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo giải trình,
tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi). Ảnh: Dương Giang/TTXVN
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) gồm: 17 chương, 151 điều, với
một số sửa đổi đáng chú ý là quy định thẩm quyền xóa nợ, cải cách hành chính
trong quản lý thuế, chứng từ, hóa đơn điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin, chống
chuyển giá, xói mòn cơ sở thuế... Dự thảo Luật đã hoàn thiện các quy định về quản
lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết để phòng chống chuyển
giá.
Theo Ban soạn thảo dự án Luật, vấn đề chuyển giá, tránh thuế của
doanh nghiệp đa quốc gia, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua chính
sách giá giao dịch nội bộ đã và đang là thách thức lớn đối với mỗi quốc gia bao
gồm cả các nước phát triển và đang phát triển.
Tại Việt Nam, song hành với chính sách thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, việc chống chuyển giá đã được chú trọng trong nhiều năm qua. Hệ thống thể
chế, chính sách điều chỉnh các hành vi chuyển giá đã không ngừng được hoàn thiện
thông qua hệ thống các văn bản pháp luật.
Trên cơ sở đó, dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đã luật hóa một
số nguyên tắc cơ bản về giao dịch liên kết đã được quy định tại Nghị định
20/2017/NĐ - CP về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết.
Cụ thể, dự thảo luật quy định nguyên tắc quản lý thuế đối với người
nộp thuế có phát sinh giao dịch liên kết; áp dụng cơ chế đơn giản hoá trong kê
khai, xác định giá giao dịch liên kết đối với người nộp thuế có quy mô nhỏ, rủi
ro thấp; nghĩa vụ cung cấp hồ sơ, thông tin dữ liệu đối với người nộp thuế có
phát sinh giao dịch liên kết. Đồng thời, dự thảo luật quy định về trao đổi
thông tin giữa cơ quan thuế Việt Nam và cơ quan thuế nước ngoài phục vụ quản lý
giá chuyển nhượng đối với người nộp thuế có phát sinh giao dịch liên kết.
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) cũng bổ sung quy định, hộ, cá
nhân kinh doanh có doanh thu và số lao động đáp ứng mức cao nhất về tiêu chí của
doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và
vừa thì thực hiện chế độ kế toán và nộp thuế theo phương pháp kê khai.
Cùng đó, Điều 28 tại Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) quy định
về Hội đồng Tư vấn thuế xã, phường, thị trấn. Theo đó, Chủ tịch UBND quận, huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh căn cứ số lượng quy mô kinh doanh của các hộ kinh
doanh, cá nhân kinh doanh trên địa bàn để quyết định thành lập Hội đồng tư vấn
thuế xã, phường, thị trấn theo đề nghị của các Chi cục trưởng Chi cục thuế, Chi
cục thuế khu vực.
Về vấn đề này nhiều ý kiến đề nghị cần có đánh giá tính hiệu quả của
Hội đồng tư vấn, nếu không phù hợp, hiệu quả thấp thì cần bãi bỏ hoặc giao Bộ
trưởng Bộ Tài chính quy định về quyền hạn, trách nhiệm và hoạt động của Hội đồng
này. Một số ý kiến đề nghị bổ sung trách nhiệm pháp lý của hội đồng tư vấn, bổ
sung thêm đại diện Hội đồng nhân dân cấp xã và một số thành phần khác tham gia
làm thành viên hội đồng tư vấn để tham gia bảo đảm quyền lợi của người dân.
Tuy nhiên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sự tồn tại của Hội đồng
tư vấn thuế xã, phường, thị trấn là cần thiết nhằm giúp cho đối tượng nộp thuế
trên địa bàn tuân thủ pháp luật về thuế và tạo cơ chế công khai, minh bạch
trong việc xác định nghĩa vụ nộp thuế và tạo cơ chế công khai, minh bạch trong
việc xác định nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế, tránh việc lợi dụng, móc
ngoặc giữa người nộp thuế và cán bộ quản lý. Do đó, vẫn cần thiết phải có Hội đồng
tư vấn thuế xã, phường, thị trấn.
Với mục tiêu bảo vệ, nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế,
nâng cao năng lực của cơ quan thuế, Ban soạn thảo cũng đã bổ sung quy định về
áp dụng hóa đơn điện tử, chứng từ điện tử vào dự thảo luật. Đây được cho là một
trong những nội dung nổi bật nhất của Luật Quản lý thuế (sửa đổi).
Theo đó, khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, người bán phải lập
hóa đơn điện tử có mã xác thực của cơ quan thuế, hoặc hóa đơn điện tử không có
mã của cơ quan thuế để giao cho người mua theo định dạng chuẩn dữ liệu mà cơ
quan thuế quy định. Khi lập hóa đơn điện tử phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định
của pháp luật về thuế, pháp luật kế toán, không phân biệt giá trị từng lần bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ.
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) cũng sửa đổi, bổ
sung quy định về thẩm quyền xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.
Theo Ban soạn thảo dự án luật, Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi)
đã mở rộng thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh được xóa nợ thuế đối với khoản
nợ thuế dưới 5 tỷ đồng trên cơ sở đề nghị của Cục trưởng Cục Thuế, Cục trưởng Cục
Hải quan. Đồng thời, UBND tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh về tình hình xóa
nợ thuế tại phiên họp đầu năm.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan
xoá nợ đối với trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt
từ 5 tỷ đồng đến dưới 10 tỷ đồng. Bộ trưởng Bộ Tài chính xoá nợ đối với trường
hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ 10 đến dưới 15 tỷ
đồng. Thủ tướng Chính phủ quyết định xóa đối doanh nghiệp nợ tiền thuế, tiền chậm
nộp, tiền phạt từ 15 tỷ đồng trở lên.
Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) lần này cũng quy định rõ các
trường hợp xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt tại Điều 85. Theo Ban soạn
thảo, một số ý kiến có đề nghị cần đánh giá kỹ hơn về tình hình nợ thuế, rà
soát lại các trường hợp được xóa nợ thuế để quy định chặt chẽ hơn.
Theo giới chuyên gia, thông thường ở các nước, nếu mức nợ thuế nằm
trong khoảng 5% trên tổng số thu thuế thì được coi là chấp nhận được.
Con số này ở Việt Nam ở mức hơn 7% vào cuối năm 2018 và hiện có tới
43% số thuế không thể thu được đang đặt ra yêu cầu cấp thiết xóa nợ thuế.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Phi Vân Tuấn thông tin, tỷ trọng
tổng nợ trên tổng thu nội địa đã giảm mạnh từ 12,2% năm 2014 xuống 7% vào cuối
năm 2018. Dù vậy, theo ông Tuấn, nợ đọng thuế tính đến ngày 31/12/2017 là
78.466 tỷ đồng vẫn còn cao.
Trong số đó, tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi của người nộp
thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, liên quan đến trách nhiệm
hình sự, đã tự giải thể, phá sản, ngừng, nghỉ và bỏ địa chỉ kinh doanh là
31.469 tỷ đồng, chiếm 43% tổng số tiền thuế nợ và bằng 3,2% tổng số thu nội địa
năm 2017.
Năm 2017, trong số 5.320 tỷ đồng tiền thuế nợ do cơ quan hải quan
quản lý, tiền thuế nợ có khả năng thu là 1.361 tỷ đồng; tiền thuế nợ không còn
khả năng thu hồi là 3.834 tỷ đồng; tiền thuế nợ chờ xóa, xét miễn, giảm, gia hạn
là 125 tỷ đồng. Việc xóa nợ sẽ làm giảm số nợ đọng thuế, giảm gánh nặng phải
quản lý nợ thuế không còn khả năng thu vào ngân sách, giảm chi phí cho Nhà nước.
Theo đó, Chính phủ đã có Tờ trình Quốc hội dự thảo dự thảo Nghị
quyết của Quốc hội về xử lý nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền phạt chậm nộp, tiền
chậm nộp của người nộp thuế đã phá sản, giải thể, không còn sản xuất kinh doanh
và không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong phiên họp Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội tháng 3 vừa qua, các thành viên ủy ban thống nhất, cần phải
có sự rà soát thận trọng, chặt chẽ việc xử lý nợ tiền thuế để tránh bị lợi dụng.
TheoBaotintuc
(HBĐT) - Sáng 23/5, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tổ chức Lễ trao Huy hiệu Đảng cho 3 đảng viên nguyên là lãnh đạo tỉnh. Tới dự và trao Huy hiệu Đảng cho các đảng viên có đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Ủy viên BCH T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy.