(HBĐT) - Tỉnh ta có điều kiện tiểu khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp để canh tác. Có cơ chế khuyến khích sản xuất và mở rộng quy mô. Có môi trường thuận lợi để tiếp cận các quy trình thực hành nông nghiệp tốt. Đặc biệt, sản phẩm luôn có lợi thế cạnh tranh cao khi đưa ra thị trường... Mặc dù đã có nền tảng vững chắc như vậy để phát triển nhưng đến nay, sản xuất rau an toàn (RAT) của tỉnh không những chưa thực hiện được bước đột phá mà còn "dậm chân tại chỗ”, thậm chí còn có bước thụt lùi đáng tiếc so với thời điểm 3 - 4 năm trước đây.
Các sản phẩm rau an toàn của HTX
rau an toàn Quyết Chiến (Tân Lạc) được người tiêu dùng đánh giá cao vì có chất lượng tốt, được chứng
nhận đảm bảo ATTP và có thể truy xuất nguồn gốc khi cung ứng ra thị trường.
Theo thống kê của Sở NN&PTNT
về kết quả áp dụng các quy trình thực hành nông nghiệp tốt trên diện tích canh
tác rau của tỉnh: Năm 2014, trên địa bàn tỉnh có 30 ha sản xuất RAT tập trung
của HTX nông nghiệp Dân Chủ, thành phố Hòa Bình được chứng nhận đủ điều kiện
ATTP; 25 ha liên kết sản xuất bí xanh tại huyện Yên Thủy được chứng nhận đảm
bảo quy trình sản xuất RAT; 3,9 ha sản xuất rau hữu cơ (tại huyện Lương Sơn)
được chứng nhận GPS; 20 ha trồng su su lấy ngọn của HTX RAT Quyết Chiến, huyện
Tân Lạc được chứng nhận đảm bảo quy trình sản xuất RAT, trong đó 9,9 ha sản
xuất theo quy trình VietGAP. Như vậy, tại thời điểm này, toàn tỉnh đã có 78,9 ha
sản xuất rau các loại được áp dụng các quy trình thực hành nông nghiệp tốt. Đây
là kết quả thể hiện bước phát triển đáng ghi nhận so với những năm 2013 trở về
trước. Tuy nhiên, đến cuối năm 2017, con số này giảm còn 26,59 ha, bao gồm
10,05 ha của liên nhóm hữu cơ Lương Sơn được chứng nhận ATTP và GPS; 11,5 ha
của HTX nông nghiệp Dân Chủ được chứng nhận ATTP; 4,5 ha của HTX RAT Quyết
Chiến được chứng nhận ATTP; còn lại là diện tích được chứng nhận VietGAP của
hai doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn là Công ty CP nấm và dược liệu thiên
nhiên (0,04 ha) và Công ty TNHH MTV Hòa Bình GAP (0,5 ha).
Bên cạnh "bước lùi” đáng tiếc về
diện tích canh tác rau được chứng nhận áp dụng các quy trình thực hành nông
nghiệp tốt, năng suất và sản lượng rau cũng "dậm chân tại chỗ” sau 4 năm: Năm
2014, tổng diện tích rau các loại 11.054
ha, năng suất 136,1 tạ/ha, sản lượng 150.485 tấn. Đến 2017, diện tích tăng nhẹ
lên mức 12.139 ha, năng suất giảm nhẹ 135,5 tạ/ha, sản lượng đạt 164.583 tấn.
Theo đánh giá của Sở NN&PTNT:
Hiện nay, tuy diện tích gieo trồng rau hàng năm của tỉnh trên 11 ngàn ha nhưng
trong đó, diện tích sản xuất đã được cấp chứng nhận đủ điều kiện ATTP, GPS và
VietGAP còn khiêm tốn. Thêm vào đó, hiệu quả kinh tế của các cơ sở được cấp
chứng nhận chưa bền vững, hầu hết các mô hình RAT đều dựa vào sự hỗ trợ ban đầu
của Nhà nước hay các chương trình, dự án để duy trì hoạt động mà chưa hoạch
định được hướng đi lâu dài, độc lập. Đây được xem là "nút thắt” quan trọng làm
tắc nghẽn sự phát triển của sản xuất RAT.
Đồng chí Phùng Thị Lan, Chủ tịch
Hội Nông dân huyện kiêm Trưởng liên nhóm nông nghiệp hữu cơ huyện Lương Sơn cho
biết: Hiện nay, Lương Sơn là địa phương duy nhất của tỉnh đã xây dựng được và
duy trì khá hiệu quả mô hình điểm về sản xuất nông nghiệp hữu cơ với sản phẩm
mũi nhọn là RAT áp dụng hệ thống PGS. Đây là hệ thống giám sát có sự tham gia
của tổ chức cộng đồng, giúp liên kết các hộ sản xuất quy mô nhỏ tiếp cận quy
trình sản xuất rau an toàn và bền vững, từ đó cung ứng ra thị trường những sản
phẩm RAT đảm bảo chất lượng ATTP. Được thành lập từ tháng 3/2009, đến nay, liên
nhóm nông nghiệp hữu cơ huyện Lương Sơn có 16 nhóm sản xuất, hoạt động lồng
ghép trong tổ chức Hội Nông dân huyện và chịu sự giám sát của Hội. Hàng năm,
sản lượng rau hữu cơ PGS được tiêu thụ thông qua các hợp đồng đạt khoảng 60-80
tấn, chưa kể một phần sản lượng không nhỏ được cung ứng cho thị trường bán lẻ
trong và ngoài huyện. Có thể nói, từ khi thành lập đến nay, liên nhóm đã được
tạo môi trường thuận lợi để phát triển và có những hoạt động đúng hướng, mang
lại hiệu quả bước đầu đáng ghi nhận. Nhưng cũng cần thẳng thắn nhìn nhận những
điểm hạn chế như quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, trình độ canh tác RAT chưa cao,
khó tạo thành vùng chuyên canh để phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung,
chưa khai thác được các thị trường mang tính chuyên nghiệp và bền vững...
Đó cũng chính là những điểm hạn
chế đang chi phối hiệu quả sản xuất RAT của toàn tỉnh hiện nay. Theo đánh giá
của Sở NN&PTNT về kết quả sản xuất RAT 5 năm trở lại đây (2013 – 2017), có
5 "nút thắt” cần được tháo gỡ để tạo bước đột phá cho sản xuất RAT thời gian
tới, bao gồm: Mở rộng diện tích canh tác để đáp ứng yêu cầu về sản xuất hàng
hóa tập trung; nâng cao trình độ canh tác của người sản xuất đồng thời thay đổi
phương thức sản xuất để áp dụng các quy trình sản xuất nông nghiệp sạch; tạo
liên kết trong sản xuất và tiêu thụ gắn với xây dựng thương hiệu cho sản phẩm;
đầu tư nguồn lực và cơ sở hạ tầng để đáp ứng các yêu cầu về canh tác rau ứng
dụng công nghệ cao; áp dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất tạo thành các sản
phẩm có giá trị thương phẩm và lợi thế cạnh tranh cao khi đưa ra thị trường.
Chắc chắn khi tháo gỡ được những "nút thắt” quan trọng này, sự phát triển của
RAT sẽ tạo thành giá trị cốt lõi góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của địa
phương.
Thu Trang
Hôm nay 25/5, ngày làm việc thứ 6, Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã dành phần lớn thời gian xem xét kết quả giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Đại biểu Đặng Bích Ngọc, Phó trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình đã phát biểu đóng góp ý kiến. Báo Hòa Bình giới thiệu toàn văn bài phát biểu.
Đoàn giám sát của Quốc hội đánh giá, các chính sách tại Nghị quyết số 43 là kịp thời, hợp lòng dân song vẫn còn tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong quá trình thực hiện.
Với phương châm, quan điểm lãnh đạo xây dựng chính quyền liêm chính, phục vụ, thực sự "vì nhân dân phục vụ”; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) có phong cách làm việc "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”... thời gian qua, cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh luôn chú trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề liên quan đến người dân, nhất là công tác tiếp nhận, giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân.
Đồng chí Nguyễn Quang Hưng, Phó Bí thư TT Huyện ủy Cao Phong cho biết: Xác định tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo (HT<) tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (Kết luận số 01-KL/TW) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Huyện ủy Cao Phong đã ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc Kết luận số 01 và thực hiện chuyên đề toàn khóa, chuyên đề hàng năm gắn với thực hiện NQT.Ư 4 (khóa XII) và Kết luận số 21, ngày 25/10/2021 của BCH T.Ư Đảng (khóa XIII) về "đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” và nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương… Trong đó chú trọng đưa nội dung HT< tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; lựa chọn nội dung trọng tâm, đột phá, những vấn đề bức xúc, nổi cộm của địa phương, đơn vị để lãnh đạo thực hiện, tránh qua loa, hình thức ở cơ sở...
Thảo luận tổ chiều 24/5 về dự thảo Luật Cảnh vệ, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, Phó trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình Đặng Bích Ngọc cơ bản đồng tình với nội dung của 2 dự thảo luật. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị: Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan tiếp tục nghiên cứu, rà soát các quy định trong dự thảo Luật bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.