Xe tăng quân giải phóng tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, ngày 10/3/1975 trong chiến dịch Tây Nguyên. Ảnh: Tư liệu
Bước vào Xuân - Hè năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy T.Ư đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A 275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam.
Bộ Tư lệnh chiến dịch do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại táĐặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm năm sư đoàn (10, 320, 316, 3, 968) và bốn trung đoàn bộ binh, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, hai trung đoàn pháo binh, một trung đoàn tăng - thiết giáp, ba trung đoàn pháo phòng không.
Thực hiện nhiệm vụ nghi binh, tạo thế chiến dịch, ngay từ đầu tháng 3/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng Sư đoàn 968 hoạt động nghi binh ở khu vực Bắc Tây Nguyên khiến Sư đoàn 23 địch phải chuyển một bộ phận lực lượng từ Buôn Ma Thuột lên Kon Tum, Pleiku đối phó.
Ngày 4/3, bộ đội ta chính thức nổ súng mở Chiến dịch Tây Nguyên. Từ ngày 4 - 9/3, quân ta đánh cắt giao thông trên các đường số 19, 21, cô lập Tây Nguyên với vùng duyên hải miền Trung, chia cắt đường số 14 để cô lập hai khu vực Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn (ngày 8/3), Đức Lập (ngày 9/3), cô lập triệt để Buôn Ma Thuột.
Thừa thắng, trong 2 ngày 10 và 11/3, quân ta tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt thứ nhất của chiến dịch. Tiếp đó, từ ngày 14 - 18/3, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 trong trận Nông Trại - Chư Cúc, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai.
Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của quân ta, từ ngày 15/3, quân địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường số 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển Khu 5. Không bỏ lỡ thời cơ, bộ đội ta kịp thời truy kích, tiêu diệt gần hết quân địch rút chạy trên đường số 7, với các trận Cheo Reo (từ ngày 17 - 19/3), Củng Sơn (ngày 24/3), giành thắng lợi trong trận then chốt thứ ba…
Sau đó, quân ta phát triển chiến đấu xuống vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phối hợp với quân và dân địa phương lần lượt giải phóng các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, kết thúc chiến dịch vào ngày 3/4/1975.
Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu trên 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, giải phóng năm tỉnh (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức) và một số tỉnh ở duyên hải Nam Trung Bộ.
Chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên, đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột đã thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng mà cụ thể là sự chỉ đạo của Bộ Tham mưu tối cao là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về tất cả các mặt, từ việc chọn chiến trường, thời điểm, chọn vị trí đột phá cho đến việc chớp thời cơ phát triển chiến dịch đến những thắng lợi tiếp theo to lớn hơn.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã tạo ra sự thay đổi căn bản về so sánh lực lượng và thế chiến lược có lợi cho ta, còn địch bị động, bị suy sụp và tan rã về chiến lược, dẫn đến co cụm và bị động đối phó trên các chiến trường. Chiến thắng Tây Nguyên đã mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của chiến dịch đã để lại nhiều vấn đề về nghệ thuật quân sự, đặc biệt là nghệ thuật nghi binh lừa địch. Đây là một kinh nghiệm lịch sử vô cùng quý giá cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay...
P.V (ST)