Gần như cùng một lúc, hai nhà thơ Mỹ - hai người bạn Bruce Weigl và Kevin Bowen - cùng có mặt ở Việt Nam để dự lễ giới thiệu hai tập thơ của họ ra mắt bạn đọc.
Cũng giống như Kevin Bowen, Bruce Weigl cũng từng tham chiến ở Việt Nam tại chiến trường Quảng Trị năm 1967-1968, cũng như Kevin Bowen, ông đã cùng dịch 4 tập thơ của các nhà thơ Việt Nam để giới thiệu cho bạn đọc Mỹ, cùng nhận được huy chương “Vì sự nghiệp văn học nghệ thuật” ở Việt Nam. Việt Nam giờ đây còn ở ngay bên ông, khi ông nhận một cô con gái nuôi người Việt.
Tôi cũng đã từng gặp Bruce Weigl ở Mỹ hồi năm 2002 và thật may mắn trong dịp Hội nghị quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới năm 2010, tôi đã mời được ông cùng Kevin Bowen, Larry Heinemann... các nhà thơ, nhà văn cựu chiến binh Mỹ ngồi ăn với nhau một buổi tối bên sông Hồng.
Bruce Weigl dáng người rất cao lớn như vận động viên bóng rổ, hay cười, hóm hỉnh, thích trò chuyện. Ông có vẻ là nhà thơ “chuyên nghiệp” hơn cả khi coi làm thơ cùng dạy học là sự nghiệp chính của đời mình. Ông đã có 13 tập thơ được xuất bản, cùng ba tập tiểu luận về thơ và tập hồi ký “Vòng tròn của Hạnh”, đã nhận được không ít giải thưởng văn học.
Ngay cái tên tập thơ: “Sau mưa thôi nã đạn” đã thấy rõ chủ ý của nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai muốn giới thiệu một phần quan trọng trong sáng tác của Bruce Weigl là những bài thơ viết về chiến tranh Việt Nam: “Nhưng những cành cây vẫn là dây kẽm gai / Tiếng sấm vẫn là tiếng súng cối nã đạn / Cả bây giờ cả khi nhắm mắt / Anh vẫn nhìn thấy bé gái chạy ra từ ngôi làng / bom napan dính chặt cô vào máu...” (Bài hát bom Napal). Ký ức về chiến tranh qua những ngày Tết năm con khỉ (1968) thật tinh tế và đau đớn khi Bruce Weigl nhìn từ nơi những cô gái bán bar: “Hai mươi tuổi mơ chạm vào da thịt mềm con gái / Nhưng sống là sự thật đen tối / Chiến tranh là con ong sắt cháy đỏ / hút cạn mật đời... (Tết đến).
Hay là hình ảnh đứa bé xin ăn bị một lính Mỹ ném hộp thức ăn vào mặt và ngã xuống rồi đứng lên: “Chới với một tay trước đầu sưng về ù, chảy máu / tay kia điên cuồng xua những đứa trẻ / đang bâu vào giành giật thức ăn...” (Điều dối trá cuối cùng). Bruce Weigl đã thẳng thắn chối từ cuộc chiến vô nghĩa này: “Chết một mình trên sa mạc, xa tổ quốc, xa người thân không bao giờ là cái chết vinh quang và tôi chẳng thèm đoái hoài tới sự biện minh từ chính quyền mình” (Thứ một nghìn). Rất nhiều bài thơ của Bruce Weigl nói về nỗi ám ảnh cuộc chiến, sự bất an khủng khiếp khi ông cũng như các cựu chiến binh khác trở về, đến mức: “Chiến tranh đã ăn ruỗng tôi / tôi không thể chạm vào ai được nữa... (Kỷ niệm ngày được tha thứ). Tôi thích những bài thơ Bruce Weigl viết khi trở lại Việt Nam, dù với ông bao năm qua những ấn tượng ghê sợ về chiến tranh vẫn còn đó, kể cả khi ngồi bình an uống rượu bên hồ Hoàn Kiếm, thăm nhà một người bạn...
Tôi thấy hơi tiếc khi Nguyễn Phan Quế Mai đã chọn hơi ít các bài thơ khác, những bài thơ đã làm nên cái tên Bruce Weigl, bởi dù sao cuộc chiến tranh đã đi qua gần hơn 3 thập kỷ rồi. Thơ Bruce Weigl có vẻ đẹp rất riêng: “Mặt trời vừa chìm xuống hàng cây / Ánh sáng cuối ngày dìu đêm trở lại / Anh nghe thấy em trong tiếng những ngôi sao... / Tóc em trên môi anh / Tiếng em trong tim anh, tiếng em trong tim anh” (Bài hát đêm) và đây nữa: “Một bài hát cũ, chúng ta đã trở thành bài hát cũ / như lời tạm biệt cuối cùng và cổ xưa của anh” (Người yêu). Đó là những câu thơ đẹp như “kinh điển”, và tôi nghĩ đó là thế mạnh của thơ Bruce Weigl.
Trong tập sách này còn có phần văn xuôi rất đáng đọc mà Bruce Weigl gọi là hồi ký “Trở về ngôi nhà Việt”. Tập sách của Bruce Weigl được in đẹp, có phần tiếng Anh nguyên bản là một cách làm hay. Nguyễn Phan Quế Mai là nhà thơ và đã có ít nhiều kinh nghiệm dịch thuật nên có thể nói đây là bản dịch tốt, mặc dù cũng còn có những câu thơ dịch chưa chuẩn khi mô tả sự mong muốn của ông bố muốn con gái là chú chim vàng anh (?) (nguyên bản: or that were may yellow bird - Con gái của bố)... Tuy nhiên đây là một bản dịch nghiêm túc và tạo được sự hấp dẫn với bạn đọc. Chính vì thế nếu so sánh hai tập thơ, tôi càng thấy tiếc cho tập thơ của Kevin Bowen
Theo Bao LĐ
Tại buổi làm việc với các sở, ban, ngành và các đơn vị liên quan đến thiết kế trưng bày Bảo tàng Hà Nội vào chiều 28/4, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo yêu cầu các đơn vị phải hoàn thành thiết kế tổng thể nội dung trưng bày Bảo tàng Hà Nội trong tháng Năm
Bốn bộ phim tài liệu do các nhà làm phim VN thực hiện sẽ lên sóng Discovery trong tháng 5-2011. Đó là thông báo chính thức từ kênh truyền hình Discovery chiều 28-4-2011.
Năm 2011 được chọn là Năm Thanh niên vì đây là năm có nhiều sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và tuổi trẻ Việt Nam. Nhiều hoạt động thiết thực đã được Trung ương Đoàn triển khai để Năm Thanh niên thực sự có ý nghĩa.
Vừa ra rạp hôm qua 27.4, bộ phim “Source Code” với tựa đề tiếng Việt là “Mật mã gốc” đã nhanh chóng thu hút các khán giả mê phim hành động giả tưởng Việt Nam bằng nội dung hấp dẫn.
Ngày 27-4 tại thành phố Hà Giang, Ban Tuyên giáo T.Ư phối hợp Tỉnh ủy Hà Giang tổ chức Hội nghị giao ban Văn hóa - Văn nghệ quý I-2011 của 15 tỉnh khu vực miền núi phía bắc
(HBĐT) - Ngày 27/4, Hội Kiến trúc sư tỉnh đã tổ chức trọng thể kỷ niệm lần thứ nhất ngày Kiến trúc Việt Nam 27/4 và hội thảo “ Kiến trúc- xây dựng tỉnh Hòa Bình trong quá trình hội nhập”. Tới dự có lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh; các sở, ngành chức năng; huyện, thành phố và hội viên Hội Kiến trúc sư tỉnh.