1. Khái quát sự hình thành, phát triển của LLVT Quân khu 3

Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối kéo dài 2/3 thế kỷ từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với cả nước, trên địa bàn Quân khu đã hình thành các tổ chức bán vũ trang, vũ trang ở các khu công nghiệp: các đội "Tự vệ đỏ", "Tự vệ công nhân" ở Hải Phòng, Nam Định; các căn cứ kháng chiến: Bãi Sậy (Hưng Yên), Kim Sơn (Hải Phòng), chiến khu Quang Trung (Ninh Bình, Hoà Bình, Thanh Hoá), chiến khu Trần Hưng Đạo (Đệ tứ chiến khu Đông Triều - Quảng Ninh và Chí Linh - Hải Dương). Ở địa bàn nông thôn và nhiều vùng khác đã phát triển mạnh mẽ các đội du kích, ngày đêm chiến đấu ngoan cường, chống càn, bảo vệ làng, xã, bảo vệ cơ sở và cán bộ cách mạng.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu xây dựng LLVT cách mạng; theo Quyết định của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà XHCN Việt Nam) ngày 31/10/1945 Liên khu 3 được thành lập, trên cơ sở hợp nhất Chiến khu 2 (Hữu ngạn sông Hồng) và Chiến khu 3 (Tả ngạn sông Hồng). Từ tháng 7/1952 đến 7/1954 Liên khu 3 tách thành Khu 3 và Khu Tả ngạn trực thuộc Trung ương. Những năm sau đó, được hợp nhất thành Quân khu 3 rồi lại tách ra thành Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu ngạn. Từ tháng 7/1976 Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu ngạn hợp nhất thành Quân khu 3. Từ tháng 8/1987, Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương) ra Nghị quyết hợp nhất Đặc khu Quảng Ninh vào Quân khu 3 cho đến ngày nay. Mặc dù đã nhiều lần thay đổi tên gọi khác nhau, nhưng ngày 31/10/1945 được xác định là ngày thành lập, Ngày truyền thống của LLVT Quân khu 3.

2. Quân và dân Quân khu 3 đoàn kết một lòng, chủ động, sáng tạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao

Trải qua 72 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân uỷ Trung ương - Bộ Quốc phòng, quân và dân Quân khu 3 đoàn kết một lòng, chủ động, sáng tạo hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ:

Một là, Quân và dân Quân khu 3 kiên cường bám trụ, mưu trí, dũng cảm chiến đấu, cùng quân và dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Với bản chất của chủ nghĩa đế quốc, được Mỹ ủng hộ, thực dân Pháp đã phản bội Tạm ước ký ngày 14/9/1945 và Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946, từng bước đẩy mạnh hoạt động quân sự lấn chiếm, khiêu khích và trắng trợn xâm phạm chủ quyền nước ta; nghiêm trọng hơn chúng còn đòi kiểm soát thuế quan và ngoại thương ở cảng Hải Phòng. Trước tình hình ngày càng căng thẳng giữa ta và Pháp, ngày 19/10/1946 Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng đã họp và nhận định: "Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh Pháp”; Hội nghị còn chỉ rõ: Phải đẩy mạnh hơn nữa xây dựng lực lượng vũ trang, coi trọng chất lượng để sẵn sàng chiến đấu với giặc Pháp xâm lược.

Tình hình thực tiễn diễn ra đúng như dự kiến tại Hội nghị Quân sự của Đảng. Ở Chiến khu 2, địch lấn chiếm hết tỉnh Lai Châu, một phần tỉnh Sơn La; ở Chiến khu 3, địch lấn chiếm Móng Cái, Hòn Gai, Hải Ninh với âm mưu lập "Xứ Nùng tự trị”.

Trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc”; thực hiện chủ trương của Đảng, quân và dân cả nước ra sức củng cố chính quyền, phát triển lực lượng vũ trang, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống; trong bối cảnh đó, trên địa bàn Quân khu lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ cũng phát triển mạnh mẽ.

Về bộ đội chủ lực, trên cơ sở các đơn vị Giải phóng quân và Đội du kích ở các Chiến khu: Đông Triều, Quang Trung, Chiến khu 2,3 và rút các đơn vị tự vệ tập trung của các tỉnh, tuyển thêm tân binh hình thành các chi đội Vệ Quốc đoàn, đến tháng 9/1945 đổi thành trung đoàn. Phía tả ngạn sông Hồng có Trung đoàn 41, Trung đoàn 44, Trung đoàn 50; phía hữu ngạn sông Hồng có Trung đoàn 35, Trung đoàn 37, Trung đoàn 39, Trung đoàn 33.

Về bộ đội địa phương, mỗi tỉnh có 1 đại đội, huyện có 1 trung đội.

Về lực lượng dân quân du kích, tự vệ, xã có dân quân du kích, khu phố, phường có tự vệ và tự vệ chiến đấu; ở mỗi huyện, thị được tổ chức lực lượng tự vệ tập trung từ trung đội đến đại đội.

Sau khi gây hấn ở Nam Bộ, thực dân Pháp đã mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ngày 20/11/1946 quân và dân thành phố Hải Phòng là nơi nổ súng, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn Quân khu 3 và các tỉnh miền Bắc. Trong suốt bảy ngày đêm, cùng với lực lượng vũ trang, nhân dân thành phố Hải Phòng đã tích cực tham gia xây dựng công sự, hầm hào, đắp chướng ngại vật ngăn chặn không cho địch đến tiếp tế, cứu thương, liên lạc, trinh sát; tham gia lùng diệt thổ phỉ và trực tiếp tham gia chiến đấu, gây tổn thất nặng nề cho thực dân Pháp, hơn chục xe tăng, thiết giáp bị bắn cháy, hàng trăm tên địch bị tiêu diệt, nhiều vũ khí, trang bị, phương tiện bị phá hủy. Đây là cuộc chiến đấu toàn dân, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Tính chất toàn dân - bản chất của chiến tranh nhân dân được thể hiện rõ nét và nổi bật, trên nền tảng chiến tranh toàn dân lực lượng vũ trang Chiến khu 3 đã lập những chiến công vang dội. Các chiến sĩ Trung đoàn 41, Đại đội Ký Con, chiến sĩ cảnh vệ, công an xung phong, tự vệ chiến đấu, tự vệ công nhân, tự vệ Cảng đã nêu cao tinh thần chiến đấu, kiên cường, trung dũng, bất khuất, làm cho quân giặc phải bàng hoàng, khiếp sợ.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1946 - 1954), với ý chí kiên cường, bất khuất, trên khắp địa bàn Quân khu đã tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân để ngăn chặn, vây hãm, tiến công tiêu diệt quân thù. Châu thổ sông Hồng là chiến trường nóng bỏng, là nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch. Tại đây, nhân dân và lực lượng vũ trang Liên khu 3 đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chủ lực của trên tiến hành nhiều chiến dịch lớn, như: Chiến dịch phản công Việt Bắc - Thu Đông năm 1947; chiến dịch Lê Lợi cuối năm 1949; chiến dịch Biên Giới năm 1950; chiến dịch Hà - Nam - Ninh năm 1951; chiến dịch Hoà Bình, chiến dịch Tây Bắc và chiến dịch Thượng Lào năm 1952; chiến dịch Đông Xuân 1953 - 1954... đánh hơn 78.600 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 ngàn tên địch, phá huỷ và thu hơn 42.000 súng các loại, hàng trăm ngàn phương tiện chiến tranh. Đây cũng là nơi diễn ra những cuộc chiến tranh du kích điển hình của cả nước, ở các địa phương đã phát triển mạnh mẽ phong trào "Đắp luỹ, đào hào, xây dựng làng chiến đấu, biến mỗi thôn xóm thành một pháo đài, mỗi người dân là một chiến sĩ anh dũng, chiến đấu ngay trong lòng địch". Hàng trăm trận chiến đấu của các làng, thôn, xã đã lập nên những chiến công vang dội, làm cho địch phải khiếp vía kinh hoàng, như: Nguyên Xá (Thái Bình), Liên Minh (Nam Định), Hùng Thắng (Hải Phòng ), Tam Nông ( Hưng Yên)... cùng với "Sấm đường 5", " Cát Bi rực lửa", "Đường 17", "Đường 10" quật khởi.... đã trở thành niềm tự hào của dân tộc, góp phần quan trọng đánh bại chiến lược quân sự "Đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước và mọi âm mưu thủ đoạn của địch trên vùng châu thổ sông Hồng, nhất là âm mưu "Bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ" làm hậu phương chiến lược và bàn đạp để xâm lược, chiếm đóng lâu dài đất nước ta, cùng cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đưa cách mạng Việt Nam sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.

Hai là, Quân và dân Quân khu 3 nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, sát cánh cùng cả nước, đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và Nguỵ quyền tay sai, thống nhất Tổ quốc, đi lên xây dựng CNXH.

Bất chấp Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và trực tiếp đưa quân vào miền Nam, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới với qui mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man tàn bạo nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Trước vận mệnh của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với cả nước, quân và dân Quân khu 3 lại tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc có tiềm lực kinh tế, quốc phòng mạnh nhất thế giới.

Từ cuối năm 1954 đến năm 1959, Quân và dân Quân khu 3 vừa tập trung khôi phục, củng cố chính quyền cách mạng ở các cấp, vừa đấu tranh có hiệu quả âm mưu chống phá thi hành Hiệp định đình chiến; đồng thời vận động hàng chục nghìn đồng bào ở các tỉnh Thanh Hoá, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Thái Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Yên (nay thuộc Quảng Ninh) không mắc mưu kẻ thù di cư vào Nam, ở lại quê hương xây dựng cuộc sống mới.

Quân và dân Quân khu còn đón 20 vạn đồng bào từ miền Nam ra Bắc tập kết; hoàn thành cải cách ruộng đất, tích cực chống giặc đói, giặc dốt, phát triển kinh tế - xã hội và phát triển mạnh LLVT 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ; đồng thời coi trọng xây dựng lực lượng hậu bị mạnh. Về bội đội chủ lực đến cuối năm 1957 đã phát triển thành sư đoàn (Quân khu Tả ngạn có Sư đoàn 320, Quân khu Hữu ngạn có Sư đoàn 304).

Từ ngày 5 đến 10/9/1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã diễn ra và thành công tốt đẹp; Đại hội đề ra đường lối chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo, đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; Đại hội khẳng định triển vọng thắng lợi tất yếu của cách mạng ở hai miền Nam Bắc.

Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, nhiều phong trào cách mạng đã phát triển mạnh mẽ trên địa bàn Quân khu, cùng với phong trào "Gió Đại phong" ở tỉnh Quảng Bình (Quân khu 4), phong trào "Sóng duyên hải" của nhà máy cơ khí Duyên Hải - Hải Phòng; phong trào "Cờ 3 nhất" của Đại đội 2 pháo binh thuộc Sư đoàn 304 - Đoàn Vinh quang đã tạo thành cao trào thi đua sôi nổi, rộng khắp trên địa bàn Quân khu.

Từ ngày 14 - 16/5/1964 Đảng uỷ Quân khu họp, quán triệt tình hình nhiệm vụ cách mạng và đề ra nhiệm vụ xây dựng LLVT Quân khu, trong đó tập trung thảo luận những quan điểm của Quân uỷ Trung ương về: Toàn cục, thực tiễn, cần kiệm, SSCĐ và chỉ rõ những nhiệm vụ trọng điểm của LLVT Quân khu là: nhiệm vụ tác chiến, xây dựng lực lượng thường trực và lực lượng dự bị, kết hợp kinh tế với quốc phòng… Đây là những vấn đề cơ bản để LLVT Quân khu vừa xây dựng phát triển lực lượng, vừa cùng cả nước chiến đấu giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Trước sự sa lầy và có nguy cơ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã liều lĩnh mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ra miền Bắc với tuyên bố "Đưa Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”, nhằm đánh vào ý chí, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc với miền Nam. Trong cuộc chiến tranh này, Quân khu 3 là một trong những địa bàn chiến lược, có nhiều mục tiêu là trọng điểm đánh phá của địch, trong đó Hải Phòng là mục tiêu huỷ diệt của chúng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Quân khu đã tích cực chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân và xây dựng LLVT nhân dân ngày càng vững mạnh. Trong suốt những năm chiến tranh ác liệt, quân và dân Quân khu 3 vừa chiến đấu kiên cường, vừa sản xuất giỏi, điển hình là những cánh đồng 5 tấn ở tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên... Nhà máy dệt Nam Định vào ca đêm dưới làn bom Mỹ; vùng mỏ kiên cường, bất khuất, sản xuất ra nhiều vàng đen cho Tổ quốc.

Trong cuộc chiến đấu đánh trả máy bay, tàu chiến Mỹ, quân và dân Quân khu đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội Hải quân, Phòng không - Không quân tạo nên thế trận hiệp đồng rộng khắp, có trọng điểm, đánh địch nhiều tầng, nhiều hướng, đạt hiệu suất chiến đấu cao, cùng các lực lượng trên địa bàn đã đánh 39.450 trận, bắn rơi 1.526 máy bay, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ; bắn chìm, bắn cháy 75 tàu chiến các loại; tiêu diệt nhiều toán biệt kích Mỹ nguỵ; rà phá và tháo ngỡ gần 69.000 quả bom, mìn, thuỷ lôi; phá tan chiến dịch phong toả đường biển vào cảng Hải Phòng; lần lượt đập tan các chiến dịch "Biển lửa", "Mũi lao lửa", "Rồng biển" của địch. Đặc biệt, đã cùng với quân và dân miền Bắc đánh đòn quyết định, làm nên chiến thắng lịch sử "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" tháng 12/1972, đánh thắng hoàn toàn 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; góp phần cùng cả nước làm nên "Đại thắng mùa xuân năm 1975", hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, vùng đất Quân khu 3 đã có nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng, trở thành niềm tự hào dân tộc như: Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Chiên, đội du kích Hoàng Ngân, dân quân xã Nam Hạ. Hình ảnh cô du kích Lai Vu "Rắn quấn ngang chân vẫn bắn thù" và những người con đã có mặt ở những thời điểm lịch sử trọng đại nhất của dân tộc: Tạ Quốc Luật bắt sống tướng Đờ Cát; Bùi Quang Thận cắm cờ trên nóc Dinh Độc lập; Phạm Tuân bay vào vũ trụ; Vũ Ngọc Nhạ, người tình báo vĩ đại… đã làm rạng rỡ và tô thắm thêm truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Ba là, Quân, dân Quân khu 3 thực hiện tốt 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đạt nhiều thành tựu to lớn trong giai đoạn cách mạng mới.

Từ sau 30/4/1975 đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trên cơ sở quán triệt các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc; Nghị quyết 02 của Bộ chính trị về nhiệm vụ quốc phòng; Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX, khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; các Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) LLVT Quân khu luôn hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ được giao, có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc, nổi bật là:

Thứ nhất: Xây dựng LLVT Quân khu vững mạnh về chính trị

Thường xuyên chăm lo xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu, luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong LLVT Quân khu. Chú trọng đổi mới công tác giáo dục chính trị, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Đề án "Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới” gắn với quản lý, định hướng tư tưởng cho bộ đội, giữ gìn, phát huy phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" trong tình hình mới. Chủ động đấu tranh với quan điểm, nhận thức sai trái; phòng chống có hiệu quả âm mưu "diễn biến hòa bình”, thúc đẩy "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” và âm mưu "phi chính trị hóa Quân đội” của các thế lực thù địch. Kịp thời định hướng nhận thức, tư tưởng, nâng cao ý thức cảnh giác, SSCĐ cho cán bộ, chiến sĩ LLVT Quân khu,… Nâng cao hiệu quả phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện. Các đơn vị làm nhiệm vụ nơi biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa mặc dù còn nhiều khó khăn gian khổ, nhưng vẫn bám trụ kiên cường, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, không để bị động bất ngờ.

Thường xuyên đẩy mạnh thực hiện phong trào TĐQT gắn với thực hiện các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước, Quân đội, nhất là triển khai thực hiện Chỉ thị 06, 03, 05 của Bộ Chính trị; Chỉ thị 07, 317, 87 của Thường vụ QUTW về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, triển khai thực hiện Nghị quyết TW 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Qua đó, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và hành động, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ; tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của LLVT Quân khu, góp phần quan trọng xây dựng tổ chức Đảng TSVM, cơ quan, đơn vị VMTD, hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng được giao.

Phối hợp với các lực lượng nắm chắc tình hình an ninh chính trị địa bàn; chủ động phát hiện, ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn cài cắm, móc nối, lôi kéo thu thập tin tức của các thế lực thù địch; thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, phòng gian giữ bí mật, không để lọt, lộ bí mật quân sự, xây dựng đơn vị an toàn gắn với địa bàn an toàn.

Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, QUTW về công tác xây dựng Đảng, kịp thời chỉ đạo tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thường xuyên duy trì thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và quy chế lãnh đạo; giữ vững nền nếp chế độ sinh hoạt; chú trọng đổi mới phong cách, phương pháp tác phong lãnh đạo, phát huy trí tuệ tập thể, đề cao vai trò trách nhiệm cá nhân trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Chỉ đạo tổ chức tốt các lớp tập huấn, bồi dưỡng, hội thi về công tác xây dựng Đảng; coi trọng bồi dưỡng nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng, nhất là năng lực ra nghị quyết và triển khai thực hiện nghị quyết. Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị đủ quân làm nhiệm vụ SSCĐ và cơ quan các cấp. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện và phát triển đảng viên được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm, thực hiện có nền nếp, chất lượng tốt. Tỷ lệ tổ chức đảng đạt TSVM và đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày càng tăng.

Đội ngũ cán bộ được xây dựng ngày càng đáp ứng tốt hơn với yêu cầu nhiệm vụ. Cấp ủy các cấp đã quán triệt và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ; kịp thời sửa đổi, bổ sung Quy chế công tác cán bộ trong Quân khu và ban hành kế hoạch thực hiện nghị quyết của QUTW về xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo. Chủ động gửi đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ; thực hiện nghiêm chủ trương luân chuyển đối với nguồn quy hoạch để cán bộ phát triển toàn diện. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy địa phương xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân sự địa phương có kiến thức toàn diện, thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương. Công tác sĩ quan dự bị và đào tạo sĩ quan dự bị ngày càng được các tỉnh, thành phố quan tâm thực hiện..

Các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân thường xuyên được củng cố, kiện toàn, hoạt động đúng chức năng, phát huy được vai trò xung kích, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn thường xuyên đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp hoạt động; hằng năm có 100% tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Công đoàn đạt tiêu chuẩn vững mạnh.

Thứ hai: Thường xuyên hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, xây dựng LLVT Quân khu vững mạnh toàn diện.

Sau năm 1975, nắm vững và dự kiến đúng tình hình, LLVT Quân khu đã chủ động chuẩn bị kế hoạch tác chiến, điều chỉnh bố trí lực lượng, xây dựng các công trình phòng thủ; kết hợp huấn luyện với tổ chức diễn tập thực binh; đồng thời, tập trung xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp, chủ động chiến đấu giành thắng lợi, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới, vùng trời, biển đảo, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quân khu.

Bước vào thời kỳ mới, các cơ quan, đơn vị đã thường xuyên quán triệt, chấp hành nghiêm chế độ trực SSCĐ; phối hợp chặt chẽ các lực lượng, chủ động theo dõi nắm chắc tình hình; những diễn biến phức tạp nảy sinh từ cơ sở; xử trí kịp thời các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Tập trung xây dựng thế trận phòng thủ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân đi vào chiều sâu, ngày càng vững chắc. Chủ động bổ sung, điều chỉnh kế hoạch tác chiến; phương án phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, phòng chống cháy nổ, cháy rừng. Sức mạnh tổng hợp của LLVT Quân khu không ngừng được củng cố, tăng cường, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Bộ CHQS các tỉnh, thành phố đã làm tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp hoàn thành toàn diện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Có nhiều đề án, cách làm sáng tạo, hiệu quả trong giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; mở các lớp đào tạo sĩ quan dự bị, cán bộ quân sự cơ sở; nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên. Hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập khu vực phòng thủ, chiến đấu phòng thủ; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy, điều hành của cấp uỷ, chính quyền, công tác tham mưu của cơ quan quân sự các cấp, sự phối hợp hiệp đồng giữa các địa phương với các đơn vị và khả năng sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, cơ quan quân sự các cấp đã làm tốt các khâu, các bước trong tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; tổ chức giao nhận quân theo đúng hướng dẫn của Bộ Quốc phòng. Hằng năm hoàn thành 100% chỉ tiêu, chất lượng tân binh được nâng lên.

Chủ động quán triệt, triển khai thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của QUTW - Bộ Quốc phòng, Đảng ủy Quân khu về công tác huấn luyện; nhất là Nghị quyết 765 của QUTW về "Nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013 - 2030 và những năm tiếp theo”. Tập trung nâng cao chất lượng, bám sát phương châm "Cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu. Triển khai có chất lượng, hiệu quả nội dung, chương trình, thời gian huấn luyện cho các đối tượng. Tích cực đổi mới tổ chức, phương pháp huấn luyện; không ngừng nâng cao trình độ quản lý, chỉ huy cho đội ngũ cán bộ các cấp; tập trung huấn luyện nâng cao trình độ kỹ, chiến thuật, nghiệp vụ và khả năng xử trí các tình huống; huấn luyện sát với địa bàn hoạt động, đối tượng tác chiến; coi trọng huấn luyện đêm, huấn luyện thể lực; huấn luyện sử dụng thành thạo VKTB có trong biên chế, VKTB mới, chất lượng huấn luyện từng bước được nâng lên. Tổ chức tốt hội thi, hội thao ở các cấp; tham gia hội thi, hội thao do trên tổ chức đạt thành tích cao.

Hệ thống các nhà trường trong Quân khu đã chủ động khắc phục khó khăn, thiếu thốn, đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật; chú trọng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, từng bước nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Các trường dạy nghề đã chủ động nắm bắt nhu cầu việc làm; bám sát mục tiêu, yêu cầu, nâng cao chất lượng đào tạo, tích cực liên kết đào tạo nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho các đối tượng, góp phần tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội.

Các cơ quan, đơn vị trong LLVT Quân khu đã có nhiều chủ trương, biện pháp đột phá nhằm nâng cao chất lượng xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật theo tinh thần Nghị quyết số 82 của Đảng ủy Quân khu về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đối với việc chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước trong LLVT Quân khu, tình hình chấp hành kỷ luật trong các cơ quan, đơn vị có nhiều chuyển biến tiến bộ rõ rệt.

Thứ ba: Bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, gắn xây dựng, phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế

Ngay trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, LLVT Quân khu đã triển khai tham gia xây dựng kinh tế với nhiều công trình quan trọng ở Thanh Hoá, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh, Nam Định và thành phố Hải Phòng... Từ giữa những năm 70 đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX hình thành và phát triển mạnh mẽ phong trào"Làm giàu đánh thắng" và trở thành nét đặc trưng, riêng có của LLVT Quân khu 3

Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay, LLVT Quân khu đã triển khai có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân vùng biên giới, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh của Tổ quốc. Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, các cơ quan, đơn vị trong LLVT Quân khu đã kịp thời xây dựng, điều chỉnh, bổ sung thế bố trí công trình, thế trận, xây dựng căn cứ hậu cần trong khu vực phòng thủ, xây dựng lực lượng hậu cần tại chỗ, liên hoàn, rộng khắp.

Những năm qua, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết 623 của QUTW về "Công tác hậu cần Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, công tác hậu cần đã bảo đảm đầy đủ, kịp thời lượng vật chất cho nhiệm vụ thường xuyên, mà trọng tâm là nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, diễn tập, phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; phát huy thế trận hậu cần nhân dân, hậu cần địa phương; kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch bảo đảm hậu cần cho SSCĐ theo quyết tâm tác chiến của Quân khu. Công tác tăng gia sản xuất, chăm sóc sức khỏe bộ đội ngày càng tốt hơn. Nền nếp chế độ công tác quân y thường xuyên được duy trì nghiêm túc; chủ động phát hiện phòng ngừa dịch bệnh, không để lây lan vào đơn vị; tỷ lệ quân số khỏe hàng năm đạt 98,8 - 98,9%. Chương trình quân dân y kết hợp, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, khám, chữa bệnh cho bộ đội và đồng bào ở vùng sâu, vùng sa, biên giới, hải đảo được duy trì có hiệu quả. Công tác quản lý, bảo quản, sử dụng xăng dầu, vật tư khí tài chặt chẽ, đúng mục đích; khai thác hiệu quả phương tiện vận tải, hoàn thành 100% kế hoạch được giao. Công tác xây dựng và quản lý doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp được các cơ quan, đơn vị thực hiện hiệu quả, không ngừng nâng cao chất lượng sinh hoạt, công tác của bộ đội.

Quán triệt, thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của QUTW - Bộ Quốc phòng, nhất là Cuộc vận động "Quản lý, khai thác VKTBKT tốt, bền, an toàn tiết kiệm và an toàn giao thông”, công tác kỹ thuật được triển khai toàn diện, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức tiếp nhận, cấp phát bảo đảm kịp thời, đầy đủ, đồng bộ các loại VKTBKT cho các nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn... Duy trì nghiêm nền nếp, chế độ ngày kỹ thuật, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa nâng cấp trạm xưởng, điều chỉnh dồn dịch hệ thống kho trạm bảo đảm chính quy, thống nhất, an toàn tuyệt đối.

Các đơn vị khối doanh nghiệp luôn chủ động nắm chắc tình hình thị trường, khắc phục khó khăn, tổ chức chặt chẽ sản xuất, kinh doanh, tích cực tìm kiếm, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động; quản lý tốt tài chính, vật tư, nộp ngân sách theo quy định, không vi phạm pháp luật.

Thứ tư: 4. Thực hiện tốt công tác dân vận, chính sách hậu phương quân đội, phong trào "đền ơn đáp nghĩa", "xoá đói giảm nghèo"

Công tác dân vận luôn được cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tích cực triển khai, đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chính quyền cơ sở ngày càng vững chắc. Quá trình thực hiện luôn gắn kết chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận động "Ngày vì người nghèo”, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, nay là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.

Các cơ quan, đơn vị tích cực tham gia, thực hiện có hiệu quả phong trào "Đền ơn đáp nghĩa”, thể hiện tình cảm, sự tri ân và trách nhiệm của cán bộ, chiến sỹ LLVT Quân khu trong thực hiện công tác chính sách đối với người có công, chính sách hậu phương quân đội với nhiều cách làm mới mang lại hiệu quả. Cơ quan quân sự địa phương đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh từ cơ sở; thường xuyên cử các tổ, đội công tác phối hợp cùng cấp uỷ, chính quyền địa phương nắm tình hình, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia phòng chống lụt bão, khắc phục hậu quả thiên tai, tạo được niềm tin của nhân dân, sự đồng thuận của xã hội. Thực hiện phong trào thi đua "Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, các đơn vị đã chủ động phối hợp với cơ quan chức năng, tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương thực hiện có hiệu quả, phù hợp với khả năng và nhiệm vụ của đơn vị.

(Còn nữa) 

                                                                                               Theo Bộ CHQS tỉnh

Các tin khác


Huy động 2.473 cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang tham gia khắc phục hậu quả thiên tai

(HBĐT) - Theo Ban chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh, trước ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng do hoàn lưu áp thấp nhiệt đới gây ra trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã huy động tối đa lực lượng, phương tiện của các ngành, các địa phương và các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh tham gia khắc phục hậu quả.

Khai tử mẹ đẻ lấy tiền trợ cấp, Phó Chủ tịch HĐND xã bị cách mọi chức vụ

Phó Chủ tịch HĐND xã Thạch Điền, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh chỉ đạo kế toán làm giấy khai tử cho mẹ hòng chiếm đoạt hơn 14 triệu đồng tiền trợ cấp.

Bắt quả tang Doanh nghiệp Vật liệu xây dựng lấp trộm sông Đà

(HBĐT) - Sáng ngày 26/10, tại địa bàn xã Trung Minh (TP Hoà Bình), lực lượng liên ngành của tỉnh và thành phố Hoà Bình đã bắt quả tang, lập biên bản đối với hành vi đổ đất đá, bê tông bồi đắp trái phép sông Đà. Khu vực đổ đất đá trái phép được cho là của hộ gia đình ông Nguyễn Quyết Tiến, nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp Vật liệu xây dựng Việt Hưng.

Cần khắc phục các thiếu sót không đảm bảo an toàn

(HBĐT) - Công ty CP Dệt kim Hòa Bình thuộc KCN bờ trái sông Đà (TP Hòa Bình) được thành lập năm 2015 và hiện có gần 200 công nhân. Công ty chuyên sản xuất tất xuất khẩu, nhà xưởng chứa nhiều bông, sợi, tất thành phẩm nên nguy cơ xảy ra cháy, nổ cao. Hồi 22h15’ ngày 2/5/2017, tại kho chứa tất lỗi, diện tích 65 m2 của Công ty từng xảy ra cháy.

Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên công khai xin lỗi gia đình bị án oan

Sáng 24-10, tại UBND thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo, Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Điện Biên tổ chức buổi lễ xin lỗi công khai đối với bà Đặng Thị Nga (sinh năm 1938); Trịnh Huy Dương (sinh năm 1970) và Trịnh Công Hiến (sinh năm 1963, đã chết), con trai bà Nga trú tại khối Sơn Thủy, thị trấn Tuần Giáo, là những người bị kết án oan về tội "giết người” và "che dấu tội phạm”.

Lực lượng vũ trang tỉnh - hình ảnh tạo niềm tin

(HBĐT) - Dù cơn lũ dữ đã đi qua nhiều ngày nhưng chúng tôi vẫn chưa thể quên được ánh mắt thất thần trên khuôn mặt lấm lem bùn đất của anh Lường Văn Quanh ở bản Hiềng, xã Đồng Ruộng (Đà Bắc) trong ngày chạy lũ. Vậy nhưng, trên khuôn mặt ấy đã tìm lại được nụ cười giữa hoang tàn, đổ nát khi được CB,CS LLVT cùng kề vai, sát cánh vượt qua gian khó...

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục