Ngày 2/6, Đại sứ quán Úc và Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) Việt Nam đã công bố dự án kéo dài một năm trị giá hơn 33 tỷ đồng (tương đương 1,46 triệu USD) nhằm hỗ trợ phục hồi và ứng phó cho phụ nữ dễ bị tổn thương ở TP Hồ Chí Minh và tỉnh Tiền Giang.
TP Hồ Chí Minh và tỉnh Tiền Giang được đánh giá là hai trong số những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi COVID-19 và có nguy cơ cao xảy ra thiên tai.
Theo đó, Đại diện UN Women tại Việt Nam: Đại sứ quán Úc và UN Women thực hiện dự án với mục tiêu nâng cao khả năng phục hồi của phụ nữ trong đại dịch COVID-19 và năng lực của các tổ chức địa phương trong việc đáp ứng nhu cầu của phụ nữ có nguy cơ bị bạo lực.
Ba Lâm Thị Ngọc Hoa, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Liên hiệp phụ nữ TP Hồ Chí Minh cho biết: "Ảnh hưởng của dịch COVID-19 tại TP Hồ Chí Minh đã để lại nhiều hệ lụy đến đời sống của người dân, nhất là những gia đình có hoàn cảnh khó khăn: Mất kế sinh nhai, mất việc làm, không có thu nhập, trẻ mồ côi... Mặc dù thành phố đã có nhiều cố gắng, vẫn cần có thêm nhiều giải pháp để phục hồi, phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực chăm lo an sinh xã hội và đặc biệt là hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị thiệt hại, nhằm phấn đấu để không ai bị bỏ lại phía sau. Vì vậy, càng cần nhiều nguồn lực như các chương trình và dự án hỗ trợ, giúp đỡ phụ nữ và trẻ em phục hồi sau dịch COVID-19.”
Ước tính sẽ có khoảng 8.000 phụ nữ nghèo hoặc cận nghèo, người thất nghiệp hoặc người bị mất thu nhập, người di cư, người có nguy cơ bị bạo lực cao hơn hoặc là nạn nhân của bạo lực và lạm dụng tại 2 địa phương kể trên sẽ được hưởng lợi từ việc nhận các gói hàng hỗ trợ, tiền mặt và hỗ trợ kĩ thuật có tính đáp ứng giới để phục hồi sinh kế.
Các can thiệp của dự án hỗ trợ phục hồi và ứng phó cho phụ nữ dễ bị tổn thương cũng được thiết kế nhằm nâng cao năng lực cho hơn 2.000 nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ để có thể đáp ứng hiệu quả 24/7 các nhu cầu của phụ nữ theo hướng tổng hợp, dựa trên hướng dẫn của Gói dịch vụ thiết yếu dành cho phụ nữ và trẻ em gái bị bạo lực của Liên hợp quốc.
"Đại dịch COVID-19 đã làm chậm lại tiến trình đạt được các mục tiêu Phát triển Bền vững và làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng đã tồn tại từ trước, bao gồm các vấn đề về giới ở Việt Nam.” - bà Elisa Fernandez Saenz, Trưởng Đại diện UN Women tại Việt Nam cho biết. "Việc phụ nữ bị mất việc làm, mất nguồn thu nhập và bị tăng gánh nặng chăm sóc không lương cho thấy sự bất bình đẳng về vai trò giới cũng như sự gia tăng phụ thuộc về kinh tế và tính dễ bị tổn thương của phụ nữ”.
Điều tra quốc gia thứ hai về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 cho thấy, cứ ba phụ nữ thì có hai người (62.9% ) từng kết hôn đã từng bị chồng bạo hành trong đời. Khoảng một nửa (49.6%) phụ nữ được phỏng vấn cho biết họ từng bị bạo lực nhưng chưa từng nói với ai, và 90.4% trong số đó không tìm kiếm sự hỗ trợ của chuyên gia.
Do COVID-19, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ đã giảm 8% trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến 2021. COVID-19 đã góp phần làm giảm thời gian làm việc của phụ nữ cũng như số lượng công việc trong các ngành sản xuất và dịch vụ.
Một đánh giá nhanh khác thực hiện bởi Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) và UN Women cũng cho thấy phụ nữ và trẻ em có nguy cơ bị bạo lực cao hơn trong giai đoạn giãn cách xã hội.
"Chúng tôi hy vọng cách tiếp cận toàn diện của dự án hỗ trợ phục hồi và ứng phó cho phụ nữ dễ bị tổn thương này sẽ hỗ trợ phụ nữ trong giai đoạn hồi phục sau đại dịch và những bài học từ dự án này sẽ được sử dụng trong những chương trình ứng phó khẩn cấp và phục hồi trong tương lai.” - bà Robyn Mudie, Đại sứ Úc tại Việt Nam chia sẻ kỳ vọng về kết quả của dự án này.