Phụ nữ Việt Nam đóng vai trò to lớn trong hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế với tỷ lệ tham gia lao động là 68,5%, thuộc vào loại cao nhất thế giới. Tuy nhiên đối với lao động nữ của Việt Nam hiện đang tồn tại hàng loạt nghịch lý: 70% lao động nữ đang làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, 60% lao động nữ làm việc thêm giờ với thời lượng hơn 4 giờ/ngày…

 

Trong khi đó, phụ nữ lại chiếm tỷ lệ rất thấp trong nhóm ngành nghề bậc cao; ở một số lĩnh vực, tỷ lệ lãnh đạo là nam giới cao hơn nữ giới ít nhất là 2 lần; cùng một khối lượng công việc, mức lương của lao động nữ lại ít hơn khoảng 20% so với nam giới… Đó là những bất cập cần nhanh chóng có biện pháp giải quyết.
 

Vai trò của phụ nữ trong lao động sản xuất và phát triển kinh tế rất to lớn, họ cần được đánh giá đúng mức và công bằng. Ảnh: Bá Hoạt


Ít cơ hội lựa chọn

Báo cáo mới nhất của Ngân hàng thế giới cho biết, tỷ lệ nữ trong các vị trí quản lý, lãnh đạo khá thấp và dù là ở cấp độ và lĩnh vực công tác nào, tỷ lệ nam giới tham gia quản lý, lãnh đạo vẫn cao hơn nữ giới với độ chênh lệch ít nhất là 2 lần. Trên thực tế, kể cả trong những khu vực phụ nữ chiếm ưu thế thì họ cũng hiếm khi được giao những vị trí quan trọng. Ví dụ, mặc dù nữ giới nắm giữ tới 71% số việc làm trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nhưng các đơn vị giáo dục thường do nam giới lãnh đạo. Số liệu thống kê cũng cho thấy nam giới nắm giữ hầu hết các vị trí quản lý cao nhất, họ có mặt trong nhiều cơ cấu ngành nghề hơn, có nhiều sự lựa chọn và không gian nghề nghiệp mở rộng hơn phụ nữ.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, ở khu vực kinh tế chính thức, phụ nữ chỉ chiếm 40% số việc làm được trả lương và chiếm tỷ lệ thấp trong nhóm ngành nghề bậc cao (quản lý, chuyên môn kỹ thuật…) đồng thời chiếm tỷ lệ cao ở nhóm nghề bậc trung, nghề có kỹ năng thấp (trong nhóm người làm công việc không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, 67% là nữ). Số liệu điều tra mức sống hộ gia đình gần đây cho thấy, 70% lao động nữ làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức (ở thành thị, tỷ lệ này vào khoảng 50%). Xu hướng nữ hóa lao động ở một số hoạt động kinh tế phi chính thức, dịch vụ, thương mại, nhóm nghề truyền thống đặc trưng hoặc nghề mới (giúp việc gia đình, dịch vụ nhà hàng, chăm sóc trẻ em…) đã tạo thêm cơ hội việc làm mới cho phụ nữ song trong nhiều trường hợp, mức độ rủi ro của loại công việc này khá cao. Do trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của nữ thấp hơn nam giới nên họ thường phải đảm nhận những công việc, vị trí kém cạnh tranh hơn.

Thời gian làm việc  nhiều hơn, thu nhập thấp hơn

Hiện vẫn tồn tại khoảng cách giới đáng kể về thu nhập làm công, ăn lương ở mọi loại hình công việc, giữa các địa bàn. Thu nhập bình quân một năm của lao động nữ thấp hơn so với lao động nam dù thời gian lao động nhiều hơn nam giới, chủ yếu là do ngoài thời gian làm việc để có thu nhập, phụ nữ còn phải làm việc nhà. Theo quy định của Bộ luật Lao động thì người lao động làm việc 40giờ/tuần nhưng trên thực tế, đa số lao động nữ phải làm việc vượt quá thời gian nói trên. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, khoảng 60% số lao động nữ làm việc thêm giờ với thời lượng quá 4h/ngày, trong những cơ sở sản xuất nhỏ thì con số này còn cao hơn nhiều.

Kết quả điều tra 505 doanh nghiệp với 2.696 lao động, do Trường Đại học Kinh tế quốc dân và Viện Nghiên cứu xã hội HAGUE (Hà Lan) thực hiện cho thấy tiền lương cơ bản và các khoản phụ cấp của nữ thấp hơn nam giới 15%. Khoảng cách này thể hiện ở tất cả các ngành kinh tế, các hình thức sở hữu của doanh nghiệp, khu vực, vị trí công việc, nhóm tuổi và loại hợp đồng.

Tiền lương và các khoản phụ cấp của công nhân nữ trong các DN luôn thấp hơn nam giới. Ảnh: Lã Anh Tuấn

Lao động nữ luôn được xem là lực lượng lao động chăm chỉ và có giá thuê rẻ hơn nam giới; đặc biệt là nhóm phụ nữ di cư từ những vùng nông thôn nghèo có ít sự lựa chọn, vì vậy thường chấp nhận công việc với mức lương rất thấp. Các ý kiến thảo luận với người dân tại cộng đồng do Viện Gia đình và Giới thực hiện cho thấy, khi được thuê làm việc, phụ nữ thường được trả công lao động thấp hơn khoảng 20% số tiền công của nam giới, cho dù khối lượng công việc, chất lượng công việc của họ đạt ngang bằng nam giới.

Theo các nhà nghiên cứu, sở dĩ bất bình đẳng trong lao động còn tồn tại là do ảnh hưởng của định kiến về giới, xu hướng gắn giá trị thấp cho công việc của nữ ở một số lĩnh vực cụ thể, sự phân biệt đối xử ở nơi làm việc trong các khâu tuyển dụng, đánh giá chất lượng công việc… Bên cạnh đó, sự khác biệt ở tuổi nghỉ hưu hiện hành có lẽ cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho phụ nữ trong việc tận dụng cơ hội nghề nghiệp, cơ hội thăng tiến.

Trước sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta như hiện nay, đặc biệt là cơ cấu của nền kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, phát triển công nghiệp và dịch vụ, phụ nữ tiếp tục phải mang trên mình gánh nặng bất cân đối về việc nhà, trong khi vẫn phải cạnh tranh ở cùng một mức độ với nam giới trong tìm kiếm việc làm, cũng như củng cố vị trí làm việc. Để giảm bớt khoảng cách giới về việc làm,  phụ nữ cần được nâng cao các kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho phụ nữ, nâng cao nhận thức, dạy nghề, tạo việc làm, góp phần giảm bất bình đẳng giới trong nhận thức xã hội nói chung.
 
 
 
                                                     Theo HaNoiMoi
 

Các tin khác


Quản lý, sử dụng hiệu quả gói hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, tránh thất thoát, lãng phí

Hôm nay 25/5, ngày làm việc thứ 6, Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã dành phần lớn thời gian xem xét kết quả giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Đại biểu Đặng Bích Ngọc, Phó trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình đã phát biểu đóng góp ý kiến. Báo Hòa Bình giới thiệu toàn văn bài phát biểu.

Tăng cường phòng chống tham nhũng, lãng phí trong các dự án quan trọng quốc gia

Đoàn giám sát của Quốc hội đánh giá, các chính sách tại Nghị quyết số 43 là kịp thời, hợp lòng dân song vẫn còn tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong quá trình thực hiện.

Giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo: Phát huy vai trò người đứng đầu giải quyết thấu đáo việc liên quan đến người dân

Với phương châm, quan điểm lãnh đạo xây dựng chính quyền liêm chính, phục vụ, thực sự "vì nhân dân phục vụ”; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) có phong cách làm việc "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”... thời gian qua, cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh luôn chú trọng giải quyết thấu đáo các vấn đề liên quan đến người dân, nhất là công tác tiếp nhận, giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân.

Huyện Cao Phong đưa việc học tập và làm theo Bác đi vào thực chất

Đồng chí Nguyễn Quang Hưng, Phó Bí thư TT Huyện ủy Cao Phong cho biết: Xác định tầm quan trọng và ý nghĩa của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo (HT<) tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (Kết luận số 01-KL/TW) về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Huyện ủy Cao Phong đã ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nghiêm túc Kết luận số 01 và thực hiện chuyên đề toàn khóa, chuyên đề hàng năm gắn với thực hiện NQT.Ư 4 (khóa XII) và Kết luận số 21, ngày 25/10/2021 của BCH T.Ư Đảng (khóa XIII) về "đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” và nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, địa phương… Trong đó chú trọng đưa nội dung HT< tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; lựa chọn nội dung trọng tâm, đột phá, những vấn đề bức xúc, nổi cộm của địa phương, đơn vị để lãnh đạo thực hiện, tránh qua loa, hình thức ở cơ sở...

Nghiên cứu, rà soát các quy định bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ

Thảo luận tổ chiều 24/5 về dự thảo Luật Cảnh vệ, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, Phó trưởng Đoàn chuyên trách phụ trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình Đặng Bích Ngọc cơ bản đồng tình với nội dung của 2 dự thảo luật. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị: Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan tiếp tục nghiên cứu, rà soát các quy định trong dự thảo Luật bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục