Kể từ năm 1927, bà Colani đã tiến hành điều tra thăm dò khảo cổ học ở vùng hang động đá vôi kéo dài từ Hòa Bình, qua Thanh Hóa vào đến tận Quảng Bình.
Ngay từ đầu, phát hiện tàn tích tiền sử dày đặc trong tỉnh Hòa Bình đã cuốn hút Colani và nhanh chóng giúp bà nhận ra sự tồn tại một nền văn hóa săn bắt, hái lượm với tầng văn hóa ken dày vỏ ốc suối, ốc núi, xương răng động vật, tầng bếp cháy và công cụ ghè đẽo từ cuội suối basalt rất phổ biến trong vùng. Từ những phát hiện trên, Colani mở rộng nghiên cứu sang vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An, Lào... và vững tin hình thành ý tưởng khoa học về một nền văn hóa khảo cổ tiền sử quan trọng có tính bao trùm cả khu vực mà cái lõi chính là các thung lũng xung quanh sơn khối Kim Bôi, nơi có đỉnh Cốt Ca, được coi như nguồn nguyên liệu basalt sừng hóa vô tận của người tiền sử Hòa Bình.
Nhân dịp hội nghị các nhà tiền sử Viễn Đông họp ở Hà Nội năm 1932, Colani đã chính thức công bố sự tồn tại một nền văn hóa tiền sử quan trọng của loài người có tính phổ cập ở một vùng rộng lớn khắp bắc Đông Dương và ngoại vi – đó là VăN HóA HòA BìNH. Đề xuất của bà đã được toàn thể hội nghị tán thưởng và từ đó xuất hiện trên báo chí, các công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, từ điển... thuật ngữ Hoabinhien (Hoabinhian) song hành với các nền văn hóa tiền sử nổi tiếng khác trên thế giới. (Madelain Colani đã qua đời vào cuối năm 1943 tại Hà Nội).
Theo kết quả nghiên cứu, cư dân văn hóa Hòa Bình có vóc dáng xương to, thô mang đặc trưng Austroloid (gần với thổ dân châu úc) có trộn lẫn một số yếu tố Mongoloid, chôn cất theo kiểu nằm co nghiêng như đang ngủ, được kè chặn đá và rắc thổ hoàng. Họ sử dụng cuội suối basalt làm nguyên liệu ghè đẽo công cụ mảnh tước và hạch. Các loài thú nhỏ như rùa, nhím cũng như bọn nhuyễn thể, giáp xác sống trong các thủy vực suối, đầm vực và trên núi đá cùng các loại côn trùng, hạt, quả, củ là nguồn thức ăn chính của người Văn hóa Hòa Bình. Họ sống chủ yếu dựa vào các mái đá hay cửa hang động, để lại những bếp lửa liên tục hàng ngàn năm và những vệt mòn đi lại ở cửa hang. Mỗi nhóm cư dân Hòa Bình như vậy chỉ khoảng 10 - 30 người di động trong một vùng khai thác thức ăn rộng chừng vài chục km2. Thời kỳ thịnh đạt của nền văn hóa này trùng với thời kỳ băng hà cuối cùng trên thế giới đã tạo ra tối ưu khí hậu ở Đông Nam á với nhiệt độ trung bình thấp hơn ngày nay chừng 5 - 70 C, mưa nhiều, thảm thực vật sồi, dẻ chiếm ưu thế khiến dân cư Hòa Bình có điều kiện tăng trưởng, mở rộng sang các vùng rừng núi phụ cận.
Kể từ năm 1932, đã 85 năm trôi qua, thế giới đã nhiều lần kỷ niệm sự kiện văn hóa trọng đại này. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới tiếp tục đi sâu khám phá nền văn hóa nổi tiếng này: Mathiew (1960) đã trình làng luận văn tiến sĩ của mình về Văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam và mở rộng trên toàn thể Đông Nam á cổ đại bao gồm cả những phát hiện ở nam Trung Hoa, Malaysia, Indonesia, Thái Lan...
ở Việt Nam, vào khoảng năm 1960 - 1964, giáo sư người Nga là Boricopski tiến hành khai quật, phúc tra nhiều hang động Văn hóa Hòa Bình. Trong những năm 1960 - 1970, tiến sĩ người Mỹ là Chester Gorman đã tiến hành khai quật ở vùng núi Mea Hong Son thuộc tây bắc Thái Lan đã đảy Văn hóa Hòa Bình thành hiện tượng toàn cầu với giả thuyết nơi đây là một trung tâm trồng trọt sớm vào loại nhất trên thế giới. Tiếp theo những chấn động do Chester Gorman tạo ra từ Thái Lan, Nguyễn Việt ở hang xóm Trại và Surin Pokajorn ở Thái Lan nhờ áp dụng khai quật có sàng đã mở ra khả năng khai thác tàn tích hạt quả trong Văn hóa Hòa Bình, một loại vật liệu định tuổi carbon phóng xạ có độ tin cậy cao hơn là vỏ ốc và xương động vật. Với gần 50 niên đại C14 bằng cả vỏ ốc lẫn than hạt quả, văn hóa Hòa Bình điển hình đã được khẳng định lên đến 20 ngàn năm cách ngày nay. Kết quả xác định bằng chuỗi niên đại AMS do Hàn Quốc tiến hành ở các hang Chổ, hang Muối sau này cũng góp phần khẳng định điều đó. Việc xem xét lại những địa điểm hang động có niên đại sớm như Thẩm Khương (Sơn La) còn cho phép mở rộng niên đại sớm hơn của lối sống Hoabinhian lên đến trên 30 ngàn năm cách ngày nay.
Từ năm 2000, loạt bài của tiến sĩ Nguyễn Việt đã xác định vùng lõi trung tâm sớm (homeland) của Văn hóa Hòa Bình là hệ thung lũng xung quanh sơn khối basalt /cranite Kim Bôi, trong đó tiêu biểu nhất là thung lũng Mường Vang với các hang, mái đá tiêu biểu như xóm Trại, làng Vành. Chính từ đây, khi biển tiến holocene trung tác động đến thủy vực Yên Thủy, Lạc Thủy, Lạc Sơn đã lôi cuốn một bộ phận cư dân Hòa Bình khai thác nhuyễn thể nước lợ, trở thành một bộ phận của nền văn hóa đá mới Đa Bút theo tuyến trục sông Bưởi.
Năm 1992, tại Hà Nội ,Văn hóa Hòa Bình đã được kỷ niệm trọng thể nhân 60 năm xác nhận toàn cầu nền văn hóa này. Từ đó, Văn hóa Hòa Bình đã tiếp tục nghiên cứu với chương trình mang tên Further Studies on Hoabinhian (cghiên cứu sâu hơn về Văn hóa Hòa Bình) của Trung tâm Tiền sử Đông Nam á Việt Nam, chương trình nghiên cứu về hai lớp nhân chủng học trong Văn hóa Hòa Bình của các chuyên gia nhân học Nhật Bản, úc, chương trình điều tra khai quật toàn diện vùng núi đá vôi Mea Hong Son của Đại học Bangkok , chương trình nghiên cứu người Hòa Bình ở Pesak (Malaysia) và một số cuộc khai quật ở Lào. Kết quả mới đã hé mở bằng chứng tư duy mỹ thuật của cư dân Văn hóa Hòa Bình qua những hình khắc trên đá khoáng từ 20 ngàn năm trước, gắn với việc khai thác các lớp muối khoáng mềm bám trên các lõi đá cứng lấy từ các đồi đất đưa về nơi cư trú nhằm tạo màu hoặc lấy các khoáng chất có lợi cho cơ thể. Các nghiên cứu sâu hơn dựa trên sinh thái ốc, hạt quả và vòng sinh trưởng ốc, cá đã cho phép khẳng định tính chất cư trú và di động theo mùa đông - xuân , hè - thu của các nhóm săn bắt hái lượm Hòa Bình. Kết quả phân tích xương cốt người khai quật được trong Văn hóa Hòa Bình cho phép xác nhận hai lớp dân cư đan xen trong quá trình phát triển của Văn hóa Hòa Bình với lớp nền Australoid và lớp phủ muộn hơn Mongoloid...
Dù đã tồn tại từ hàng chục ngàn năm trước nhưng sự hiện hữu của nền văn hóa này vẫn còn ở khắp nơi trên đất Hòa Bình, là niềm tự hào của nhân dân nơi đây và là di sản quý hiếm của dân tộc có giá trị quốc tế cao. Sau 85 năm được thế giới công nhận, Văn hóa Hòa Bình vẫn luôn là một nền văn hóa tiền sử độc đáo, đầy sức cuốn hút với nhiều thế hệ khảo cổ học, khoa học xã hội nhân văn trong và ngoài nước với hứa hẹn mở thêm nhiều cánh cửa còn bí hiểm của nền văn hóa khảo cổ xa xưa này.
Tiến sỹ Nguyễn Việt
(Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á)
(HBĐT) - Chiều ngày 7/10, Liên hoan làng du lịch cộng đồng các tỉnh Tây Bắc mở rộng năm 2017 đã tiếp tục diễn ra với cuộc Thi thuyết minh giới thiệu làng du lịch cộng đồng các tỉnh Tây Bắc mở rộng. Tham gia thi có 11 thí sinh đến từ 11 làng du lịch cộng đồng.