(HBĐT) - Sau 4 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao, ngày 20/10, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã bế mạc và thành công tốt đẹp. Đại hội đã thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH HOÀ BÌNH
LẦN THỨ XV NHIỆM KỲ 2010 - 2015
----------
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hoà Bình lần thứ XV diễn ra từ ngày 17 đến ngày 20 tháng 10 năm 2010 tại Cung Văn hoá tỉnh Hoà Bình.
QUYẾT NGHỊ
1. Tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm 2005 - 2010 và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2010 - 2015 nêu trong Báo cáo chính trị trình Đại hội
1.1. Về đánh giá tình hình 5 năm 2005 - 2010
Đại hội khẳng định: 5 năm qua Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình đã đoàn kết, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, giành được những thàn tựu quan trọng, toàn diện về kinh tế - xã hội, nội chính, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tỉnh Hoà Bình đã cơ bản thoát khỏi tỉnh nghèo và từng bước phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết thúc năm 2010, có 11/15 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt so với Nghị quyết Đại hội XIV đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 12%/năm, cao hơn 4% so với bình quân 5 năm trước. Cơ cấu kinh tế so với năm 2005: Tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 35%, giảm 8,1%; công nghiệp - xây dựng chiếm 31,5%, tăng 8%; dịch vụ chiếm 33,5%, tăng 0,1%. GDP bình quân đầu người đạt 13,3 triệu đồng, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIV 51%, tăng hơn 3 lần so với năm 2005. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2010 đạt 1.212 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIV 21%, tăng gấp 4 lần so với năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo còn 14%. Đời sống nhân dân các dân tộc tiếp tục được cải thiện; văn hoá, xã hội có bước tiến bộ mới; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị được quan tâm. Những thành tựu đạt được đánh dấu bước phát triển mới, tạo đà vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Đạt được những thành tựu trên là do Đảng bộ đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết Đại hội X, các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ vào điều kiện cụ thể của tỉnh, thông qua việc đề ra và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XIV; sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả của các cấp uỷ đảng, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở; sự phối hợp tích cực của các cấp, các ngành, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; sự đoàn kết, nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách của các doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ, chính quyền các cấp, các ngành, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của Nhà nước. Các công trình, dự án quan trọng về kết cấu hạ tầng, sau nhiều năm đầu tư xây dựng đã phát huy tác dụng.
Tuy nhiên, một số chỉ tiêu Đại hội XIV đề ra chưa đạt; một số mặt hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, nội chính, xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chậm được khắc phục.
Những hạn chế, yếu kém trên đây bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
* Về khách quan: Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó lường, nhất là lạm phát, khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế thế giới, suy giảm kinh tế trong nước, đã tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Hậu quả nặng nề của lũ lụt, hạn hán, một số dịch bệnh nguy hiểm đã gây không ít khó khăn cho sản xuất nông, lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm và đời sống nhân dân.
* Về chủ quan: Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số cấp uỷ, chính quyền các cấp còn yếu. Việc lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, lĩnh vực... còn nhiều bất cập, bị động, thiếu quy hoạch, kế hoạch dài hạn và đầu tư cho công tác lập quy hoạch còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực, cải cách hành chính chưa đáp ứng kịp theo yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
Trên cơ sở đánh giá những mặt được, chưa được, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong 5 năm qua, Đại hội rút ra một số bài học kinh nghiệm, đó là:
Thứ nhất: Kịp thời nắm bắt tình hình, chủ động đề ra các chủ trương, quyết sách đúng đắn, sáng tạo và tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả. Bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao trong các cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, đồng thời phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sức mạnh đoàn kết các dân tộc trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai: Coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, bền vững gắn với giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Gắn phát triển kinh tế với văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là với người nghèo, đồng bào vùng đặc biệt khó khăn.
Thứ ba: Chăm lo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Giữ vững nguyên tắc, kỷ cương, tăng cường đoàn kết nội bộ, phát huy dân chủ và vai trò hạt nhân lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Đẩy mạnh cải cách hành chính đi đôi với củng cố, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp thực sự có hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, điều hành. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ tư: Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, quản lý của chính quyền, phương thức tuyên truyền, vận động quần chúng của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Chủ động trong công tác dự báo, có kế hoạch, giải pháp thích hợp, trọng tâm, trọng điểm. Phân công, phân cấp rõ ràng, rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành và người đứng đầu trong lãnh đạo, quản lý. Phát huy dân chủ ở cơ sở, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị.
1.2. Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhiệm kỳ 2010 - 2015
* Phương hướng, mục tiêu tổng quát: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ, phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế của tỉnh, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, từng bước xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội để thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, bền vững. Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực. Tập trung thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, tích cực phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và giữ vững ổn định chính trị xã hội. Từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phấn đấu đến năm 2015, kinh tế tỉnh Hoà Bình cơ bản đạt mức phát triển trung bình của cả nước.
* Một số chỉ tiêu chủ yếu:
- Nhiệm kỳ 2010 - 2015:
+ Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 13%/năm (chưa tính giá trị tăng thêm của Công ty thuỷ điện Hoà Bình); 8,9%/năm (có tính giá trị tăng thêm của Công ty thuỷ điện Hoà Bình).
+ Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn bình quân hàng năm tăng 12,5%.
+ Diện tích rừng trồng mới hàng năm 8.000 ha và giữ ổn định độ che phủ rừng khoảng 46%.
+ Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 3%/năm.
+ Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm dưới 1%.
- Đến năm 2015:
+ Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây dựng chiếm 39,7%; dịch vụ chiếm 36,7%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 23,6% (chưa tính giá trị tăng thêm của Công ty thuỷ điện Hoà Bình). Công nghiệp - xây dựng chiếm 50%; dịch vụ chiếm 30,4%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 19,6% (có tính giá trị tăng thêm của Công ty thuỷ điện Hoà Bình).
+ GDP bình quân đầu người đạt 29 triệu đồng (chưa tính gía trị tăng thêm của Công ty thuỷ điện Hoà Bình) và đạt 35 triệu đồng (có tính giá trị tăng thêm của Công ty thuỷ điện Hoà Bình).
+ Kim ngạch xuất khẩu đạt 100 triệu USD, nhập khẩu đạt 60 triệu USD.
+ Sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 36 vạn tấn.
+ Tỷ lệ số hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh đạt 93%.
+ Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 15% .
+ Tỷ lệ số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 97%.
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 45%.
+ Tỷ lệ số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 60% và đạt 7,5 bác sỹ/vạn dân
+ Tỷ lệ số tổ chức cở sở Đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh 80%.
* Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
- Về kinh tế:
Thứ nhất: Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư từ bên ngoài, huy động tối đa các nguồn lực trong tỉnh phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, đặt nền móng cho tăng trưởng nhanh và bền vững trong những giai đoạn tiếp theo
Hình thành môi trường quản lý nhà nước và thể chế đầu tư tốt, tạo bước đột phá trong cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, phát huy nội lực, thu hút đầu tư từ bên ngoài: Tăng cường, chủ động trong công tác nghiên cứu, xây dựng thể chế và vận dụng các chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế phù hợp với tình hình cụ thể tại địa phương. Tổ chức xây dựng mới các quy hoạch, kế hoạch kinh tế - xã hội dài hạn, phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm mới phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là phát triển xi măng, vật liệu xây dựng, vận tải thủy, chế biến lâm sản... Tạo bước đột phá về cải cách hành chính ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan đến đất đai, mặt bằng, cấp chứng nhận đầu tư, đăng ký kinh doanh, thủ tục đầu tư, quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Đẩy mạnh công tác phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của từng ngành, từng cấp. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước các cấp, đảm bảo không chồng chéo, mâu thuẫn. Nhanh chóng tin học hóa hoạt động quản lý nhà nước từ tỉnh đến cơ sở, tạo thuận lợi cho xây dựng chính quyền điện tử. Đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ công với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện triệt để việc phân định rõ quản lý hành chính nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý hoạt động dịch vụ công.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo bước phát triển đột phá về quy mô và chất lượng đào tạo đối với lực lượng lao động của tỉnh, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn, đồng thời cung cấp cho các thị trường lao động trong và ngoài nước: Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả về phẩm chất đạo đức và năng lực công tác để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện hội nhập. Tập trung đầu tư nâng cấp hạ tầng các cơ sở đào tạo, dạy nghề hiện có như: Trường Cao đẳng dạy nghề, Trường Trung học Kinh tế kỹ thuật, Trường Cao đẳng sư phạm, Trường Trung học Y tế. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, mở rộng ngành nghề đào tạo. Nâng cấp một số trường chuyên nghiệp lên thành trường Cao đẳng và Đại học. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân và đào tạo nghề cho một bộ phận nông dân để chuyển đổi nghề nghiệp, xuất khẩu lao động theo đề án của Thủ tướng Chính phủ.
Huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài tỉnh cho đầu tư phát triển, tạo đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: Thiết lập cơ chế ưu đãi thích hợp, quy trình thủ tục thông thoáng, điều kiện kết cấu hạ tầng, đất đai thuận lợi, nhằm thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài. Thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhà đầu tư để giải quyết các vướng mắc, huy động cao nhất vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh. Ban hành chính sách và giải pháp hợp lý, điều hành để giải quyết triệt để những khó khăn, vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai dự án nhanh, hiệu quả. Phấn đấu, tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tỉnh đạt trên 45 ngàn tỷ đồng, tăng bình quân 21%/năm.
Tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai dọc các tuyến quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện, nhất là các tuyến đường mới mở, đất đai vùng ven đô thị, khu công nghiệp để tạo nguồn tài chính từ quỹ đất. Tạo thuận lợi về quỹ đất đai để nhà đầu tư trong tỉnh bỏ vốn phát triển hạ tầng đô thị, công nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp địa phương phát triển các ngành nghề truyền thống. Tổ chức thực hiện tốt các luật thuế, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý các đối tượng hoạt động kinh doanh trên địa bàn, nắm chắc tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, khai thác triệt để các nguồn thu và tăng cường các biện pháp chống thất thu ngân sách nhà nước. Tổ chức phân bổ, điều hành chi ngân sách địa phương đảm bảo thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Thứ hai: Bước đầu hình thành vùng động lực kinh tế và ngành kinh tế mũi nhọn làm đầu tầu cho sự phát triển kinh tế của tỉnh
Quy hoạch vùng động lực thành phố Hòa Bình - huyện Kỳ Sơn - huyện Lương Sơn - bắc huyện Lạc Thuỷ thành vùng kinh tế năng động, tạo sự lan tỏa, kéo theo các vùng khác cùng phát triển: Trọng tâm là xây dựng tuyến đường cao tốc Hoà Lạc - Thành phố Hoà Bình, cải tạo nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Thành phố Hà Nội – Thành phố Hòa Bình; mở rộng khu công nghiệp Lương Sơn và xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp bờ trái sông Đà, Nhuận Trạch, Mông Hóa, Yên Quang, Nam Lương Sơn, các cụm công nghiệp đã phê duyệt quy hoạch. Quy hoạch xây dựng thành phố Hòa Bình và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề để thị trấn Lương Sơn sớm trở thành thị xã.
Phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, gắn với phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh. Chú trọng phát triển sản phẩm có giá trị cao, đưa giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm 18,2%. Phát triển các ngành hàng, loại hình dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: Thương mại, du lịch, vận tải, tư vấn, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng,...đạt mức tăng trưởng của ngành bình quân 14,2%/năm. Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ công nghệ thông tin, truyền thông, đẩy nhanh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin liên lạc. Phát triển hệ thống truyền thông trực tuyến và chính quyền điện tử cấp tỉnh, cấp huyện. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng du lịch, đến năm 2015 tổng lượng khách du lịch đạt 2,5 triệu lượt người và thu nhập du lịch đạt 800 tỷ đồng. Giá trị xuất khẩu bình quân tăng 20%/năm, đạt 100 triệu USD vào năm 2015.
Thứ ba: Đảm bảo phát triển ổn định nông nghiệp, nông thôn, nhất là ngoài vùng động lực
Phát triển sản xuất nông nghiệp, đảm bảo ổn định đời sống nhân dân và từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường tiêu thụ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành theo hướng sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, hiệu quả kinh tế lớn và tăng tỷ trọng chăn nuôi trong ngành.
Bảo đảm tăng trưởng bình quân hàng năm 4,2% và thực hiện tốt chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đó trọng tâm là vấn đề đào tạo nghề cho nông dân và xây dựng mô hình nông thôn mới. Tiếp tục thực hiện chính sách trồng rừng và bảo vệ rừng, phát huy vai trò của các nguồn vốn ngoài nhà nước để trồng rừng kinh tế, rừng sinh thái phục vụ phát triển du lịch. Duy trì diện tích, nâng cao năng suất lúa, ngô đảm bảo an ninh lương thực vùng phát triển trung bình. Đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hình thành các vùng cây công nghiệp, cây ăn quả hàng hóa; phát triển các trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn. Tập trung phát triển trồng trọt, chăn nuôi, vườn đồi, vườn rừng, kinh tế trang trại, hỗ trợ nhân dân về giống, vốn, đảm bảo an ninh lương thực tại vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn, không để xảy ra đói giáp hạt cục bộ, từng bước tiến tới sản xuất hàng hóa.
- Về văn hoá - xã hội:
Thứ nhất: Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục. Tăng cường đầu tư từ ngân sách Nhà nước và huy động các nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo, từng bước thực hiện chuẩn hoá và hiện đại hoá cơ sở vật chất, trường lớp, trang thiết bị dạy và học trong các nhà trường và các cơ sở giáo dục. Duy trì và nâng cao chất lượng, kết quả phổ cập tiểu học, chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, từng bước thực hiện phổ cấp giáo dục bậc trung học. Đến năm 2015, có 100% giáo viên mầm non, phổ thông đạt chuẩn đào tạo, trong đó có từ 20 - 25% đạt trình độ trên chuẩn; có 25% trường mầm non, 49% trường tiểu học, 35% trường trung học cơ sở, 18% trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia.
Thứ hai: Phát triển văn hoá, báo chí, phát thanh, truyền hình và thể dục, thể thao
Đến năm 2015, xây dựng và hoàn thành 80% thiết chế văn hoá, thể thao cấp tỉnh; 80% Sân vận động, nhà văn hoá, nhà thi đấu thể thao cấp huyện; 50% xã, thị trấn có nhà văn hoá, sân vận động đủ tiêu chuẩn theo quy định; 80% xóm, bản, tổ dân phố có nhà văn hoá. Tiếp tục nâng cao chất lượng phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Đến năm 2015, đạt 80% số hộ gia đình; 65% số làng, bản, tổ dân phố; 80% cơ quan, đơn vị, trường học đạt tiêu chuẩn văn hoá. Chú trọng công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy di sản, giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số.
Nâng cao chất lượng hệ thống thông tin, báo chí, xuất bản. Hiện đại hoá hệ thống kỹ thuật, công nghệ phát thanh truyền hình và tăng cường thời lượng, chất lượng phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc Mường.
Đẩy mạnh Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Đến năm 2015, có 30% số người luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên, 22% số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn thể thao.
Thứ ba: Tăng cường chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phòng chống dịch bệnh, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm và làm tốt công tác dân số
Nâng cao chất lượng các dịch vụ khám chữa bệnh cho nhân dân ở các tuyến, nhất là y tế cơ sở; tăng cường công tác y tế dự phòng và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án y tế. Kiện toàn đội ngũ công chức y tế từ tỉnh đến cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động y tế, đa dạng hoá các loại hình khám chữa bệnh, triển khai mạnh mẽ các biện pháp kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm.
Duy trì tỷ lệ sinh thay thế, nâng cao chất lượng dân số, gắn công tác dân số với gia đình và bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em. Đến năm 2015, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn dưới 18%, tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em 8 - 12 tuổi dưới 5%, đảm bảo tiêm chủng cho trẻ em đạt 96%.
Thứ tư: Phát triển khoa học và công nghệ
Tăng cường sự đóng góp của khoa học và công nghệ vào phát triển lĩnh vực mũi nhọn, khâu đột phá trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Thứ năm: Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về tài nguyên, khoáng sản và bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế phải hướng tới công nghệ sạch, công nghệ tiên tiến, sử dụng tiết kiệm tài nguyên, sử dụng các nguồn năng lượng sạch.
Tăng cường quản lý nhà nước về môi trường theo luật định. Đến năm 2015, tiếp tục duy trì 100% thành phố, thị trấn được thu gom rác thải; 100% các khu công nghiệp, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý rác thải; 90- 100% các cơ sở sản xuất kinh doanh được xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
Thứ sáu: Quan tâm giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ các đối tượng chính sách, bảo đảm an sinh xã hội
Mở rộng và thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động trong các thành phần kinh tế theo luật định. Đẩy mạnh chương trình giải quyết việc làm, hàng năm tạo việc làm cho 16.000 người trở lên trong đó xuất khẩu lao động khoảng 1.000 người. Đến năm 2015, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị còn 4,5%; sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đạt khoảng 87%.
Đẩy mạnh xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo, quản lý, sử dụng và lồng ghép có hiệu quả các nguồn vốn cho vay ưu đãi hộ nghèo; nâng cao chất lượng, hiệu quả giúp đỡ xã nghèo với nội dung, hình thức phù hợp; thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về y tế, giáo dục cho các hộ nghèo và tạo cơ hội để hộ nghèo tự lực thoát nghèo thông qua các chính sách trợ giúp của Nhà nước.
Thứ bảy: Tiếp tục quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn và chính sách về tôn giáo
Thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án để đầu tư kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số; đào tạo ngành nghề cho lao động nông thôn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh, bền vững; phát triển văn hóa, giáo dục nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào các dân tộc.
- Về công tác nội chính:
Tiếp tục lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương. Xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, nòng cốt là xây dựng các lực lượng vũ trang tỉnh đủ mạnh, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực, trọng tâm là bảo vệ chặt chẽ nội bộ, không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác cho cán bộ và nhân dân về âm mưu “Diễn biến Hoà Bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Phát huy hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, kiềm chế và từng bước làm giảm tội phạm, tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông. Tiếp tục tăng cường sự phối hợp giữa các ngành trong khối nội chính về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Tập trung làm tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và bổ trợ tư pháp theo chiến lược cải cách tư pháp. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở.
- Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh và phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc: Nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và năng lực của cán bộ, đảng viên, tạo sự thống nhất trong đảng, đồng thuận trong nhân dân. Kiên quyết đấu tranh phê phán tư tưởng bảo thủ trì trệ, trông chờ ỷ lại, ngăn chặn suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống. Tích cực, chủ động nắm bắt tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân để giáo dục, định hướng kịp thời. Gắn công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên với việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các phong trào thi đua yêu nước, chú trọng việc nỗ lực làm theo tấm gương của Bác. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên, xây dựng các chi, đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật nghiêm minh đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng và nhân rộng các hình thức tự quản, tự hoà giải các mâu thuẫn, vướng mắc, tranh chấp ở cơ sở. Đổi mới phương thức vận động, tập hợp quần chúng, hướng mạnh về cơ sở, tăng cường đối thoại trực tiếp với nhân dân. Nâng cao hiệu lực quản lý, năng lực chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, bảo đảm chính quyền thực sự là của dân, do dân và vì nhân dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua các hoạt động của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp, nhất là việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
2. Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XIV
Từ kinh nghiệm của khoá XIV, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV cần tiếp tục phát huy ưu điểm, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác và tập trung vào những vấn đề cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ mới.
3. Thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến của Đại hội các đảng bộ trực thuộc và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đóng góp vào dự thảo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Giao Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV tổng hợp ý kiến thảo luận tại Đại hội để bổ sung, hoàn chỉnh báo cáo, trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
4. Thông qua kết quả bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV, gồm 53 đồng chí và bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng gồm 16 đồng chí đại biểu chính thức và 01 đồng chí đại biểu dự khuyết
Giao Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV hoàn chỉnh hồ sơ về kết quả bầu cử, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư để quyết định chuẩn y theo quy định của Điều lệ Đảng.
5. Giao Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XV: Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XV và trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng xây dựng các Chương trình, Kế hoạch hành động, Quy chế làm việc để nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội đi vào thực hiện trong thực tiễn.
Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng kiên cường của Đảng bộ, truyền thống vinh quang của tỉnh Hoà Bình anh hùng, đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động ra sức khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần chủ động, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm phấn đấu hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã đề ra, xây dựng tỉnh Hoà Bình giàu đẹp, văn minh, góp phần xứng đáng cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH HOÀ BÌNH LẦN THỨ XV
(HBĐT) - Nhân kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống ngành Tổ chức xây dựng Đảng (14/10/1930 - 14/10/2010), đồng chí Hoàng Việt Cường, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đã có bài viết đánh giá kết quả và những đồng góp của ngành Tổ chức xây dựng Đảng tỉnh. HBĐT xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
HBĐT) - Ngày 30/9, đồng chí Hoàng Việt Cường, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh đã đến thăm, tặng quà của Chủ tịch nước cho cụ Bùi Thị Bíp, 103 tuổi ở xóm Mớ Đá, xã Hạ Bì, huyện Kim Bôi nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Người cao tuổi 1/10. Cùng đi có lãnh đạo Ban đại diện người cao tuổi tỉnh, lãnh đạo Huyện uỷ, Hội Người cao tuổi huyện Kim Bôi.
(HBĐT) - Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Hòa Bình lần thứ III (2006-2010) là sự kiện chính trị xã hội hết sức quan trọng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Để đánh giá vai trò, vị trí, kết quả và thành tích của phong trào thi đua yêu nước tỉnh ta đã đạt được trong thời gian qua và những định hướng trong thời gian tới, HBĐT đã có cuộc trao đổi với đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, Chủ tịch HĐTĐKT tỉnh xung quanh vấn đề này
(HBĐT) - Nhân dịp kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2010) và Quốc khánh 2/9 (2/9/1945 - 2/9/2010), đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã có bài viết về công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của tỉnh, đặc biệt là những bước phát triển sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. HBĐT xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
(HBĐT) - Ngày 24/8/2010, Chủ tịch UBND tỉnh có Công điện khẩn số 04/CĐ-UBND gửi các ngành, huyện, thành phố. Nội dung chính như sau: Hiện nay, áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên thành cơn bão số 3 (tên quốc tế Mindulle). Hồi 13h ngày 23/8, vị trí tâm bão ở khoảng 16,4 độ vĩ bắc, 109,9 độ Kinh Đông, cách bờ biển các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Ngãi khoảng 150 km về phía đông đông bắc, sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 9, giật cấp 10, cấp 11.
(HBĐT) - Ngày 18/8, đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, cùng đại diện Sở Ytế, Bộ CHQS tỉnh đã đến kiểm tra tình hình nơi bùng phát bệnh “tê tê say say” tại xã Bình Chân, huyện Lạc Sơn.