Dự kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử ĐBQH (Điều 8): Chậm nhất 105 ngày trước ngày bầu cử, UBTVQH dự kiến cơ cấu, thành phần ĐBQH; số lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội, LLVT nhân dân, cơ quan Nhà nước ở T.Ư và địa phương được giới thiệu ứng cử ĐBQH để bảo đảm tỷ lệ đại diện hợp lý của các tầng lớp Nhân dân trong Quốc hội; số lượng người dân tộc thiểu số (DTTS) được giới thiệu ứng cử ĐBQH do UBTVQH dự kiến, bảo đảm có ít nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH là người DTTS; số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH là phụ nữ.
Dự kiến cơ cấu thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử HĐND (Điều 9): Căn cứ số lượng đại biểu HĐND được bầu ở mỗi đơn vị hành chính theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, sau khi thống nhất ý kiến với Ban thường trực UBMTTQ và UBND cùng cấp, chậm nhất là 105 ngày trước ngày bầu cử.
Thường trực HĐND cấp tỉnh, Thường trực HĐND cấp huyện dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của tổ chức chính trị, tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp mình và các đơn vị hành chính cấp dưới, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, trong đó, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ; số lượng người ứng cử là người DTTS được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương;
Thường trực HĐND cấp xã dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người của tổ chức CT-XH, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước ở cấp mình và thôn, tổ dân phố, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế trên địa bàn được giới thiệu để ứng cử đại biểu HĐND cấp xã, trong đó, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ; số lượng người ứng cử là người DTTS được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.
Về đơn vị bầu cử được quy định tại Điều 10: ĐBQH và đại biểu HĐND được bầu theo đơn vị bầu cử.
Tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư được chia thành các đơn vị bầu cử ĐBQH. Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số lượng ĐBQH được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử được tính căn cứ theo số dân, do Hội đồng Bầu cử quốc gia ấn định theo đề nghị của Ủy ban Bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư và được công bố chậm nhất 80 ngày trước ngày bầu cử; tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp huyện. Xã, phường, thị trấn được chia thành các đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp xã.
Số đơn vị bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, danh sách các đơn vị bầu cử, số lượng đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử do Ủy ban Bầu cử ở cấp đó ấn định theo đề nghị của UBND cùng cấp, được công bố chậm nhất 80 ngày trước ngày bầu cử.
Mỗi đơn vị bầu cử ĐBQH được bầu không quá 3 đại biểu. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu HĐND được bầu không quá 5 đại biểu.
Khu vực bỏ phiếu được quy định tại Điều 11: Mỗi đơn vị bầu cử ĐBQH, đơn vị bầu cử đại biểu HĐND chia thành các khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu bầu cử ĐBQH đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu HĐND các cấp.
Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ 300 - 4.000 cử tri. Ở miền núi, vùng cao, hải đảo và những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có đủ 300 cử tri cũng được thành lập một khu vực bỏ phiếu.
Các trường hợp có thể thành lập khu vực bỏ phiếu riêng: Đơn vị vũ trang nhân dân; bệnh viện, nhà hộ sinh, nhà an dưỡng, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người cao tuổi có từ 50 cử tri trở lên; cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, trại tạm giam.
Việc xác định khu vực bỏ phiếu do UBND cấp xã quyết định và được UBND cấp huyện phê chuẩn. Đối với huyện không có đơn vị hành chính xã, thị trấn, việc xác định khu vực bỏ phiếu do UBND huyện quyết định.
Đ.H (TH)