I- TÌNH HÌNH VÀ
NGUYÊN NHÂN
1- Trong 15 năm thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 khóa IX về "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước" và các chủ trương của Đảng về doanh
nghiệp nhà nước; các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nhà nước đã cụ thể hóa và
triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tiếp tục đổi
mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Cùng với cơ chế,
chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng để bảo
đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát,
đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
- Cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được thu gọn
hơn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Cơ chế hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước đã có bước đổi mới theo hướng tự chủ kinh doanh, cạnh
tranh bình đẳng, công khai, minh bạch hơn. Hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh
tranh của một số doanh nghiệp nhà nước được nâng lên. - Quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã có bước đổi mới
theo hướng phù hợp hơn với sự thay đổi về cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp nhà
nước và cơ chế thị trường.
2- Tuy nhiên, vai trò của doanh nghiệp
nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực
phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế. - Nhìn chung, hiệu quả sản xuất
kinh doanh và đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương
xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nợ nần, thua lỗ, thất thoát lớn. Cơ chế
quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù hợp
với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế. -
Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước triển khai chậm,
quá trình cổ phần hóa còn nhiều yếu kém, tiêu cực và có một số khó khăn,
vướng mắc về thể chế chậm được giải quyết, nhất là thể chế định giá đất đai,
tài sản. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng;
công tác cán bộ, chính sách tiền lương còn bất cập, chưa phù hợp với cơ chế
thị trường. Việc tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng của cơ quan đại
diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thực hiện chậm. Cơ chế
quản lý, giám sát và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người
đại diện chủ sở hữu nhà nước chưa thật rõ ràng và phù hợp. - Đổi mới phương
thức lãnh đạo của các tổ chức đảng, phương thức hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội trong doanh nghiệp chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu
lại doanh nghiệp nhà nước.
3- Những hạn chế, yếu kém nêu trên của
doanh nghiệp nhà nước do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ
yếu là do nguyên nhân chủ quan: - Nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế
nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp cơ cấu lại, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước còn chưa đầy đủ;
một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chưa được kịp thời tổng kết
thực tiễn, kết luận, dẫn đến chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức và
hành động. - Việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng về
doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, bất cập. Chủ quan, nóng vội trong
thực hiện chủ trương thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt
động đa ngành. Lúng túng trong xác định mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Kỷ cương, kỷ luật không nghiêm. - Thể chế quản lý, quản trị doanh nghiệp nhà
nước còn không ít hạn chế, yếu kém, tạo kẽ hở để hình thành "nhóm lợi
ích", thao túng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, tham nhũng, lãng
phí; không rõ ràng về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân; quyền hạn chưa
gắn với trách nhiệm trong quản trị, điều hành doanh nghiệp nhà nước; thiếu cơ
chế kiểm soát quyền lực.
- Công tác đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều
hạn chế. Một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước yếu kém
về năng lực quản lý, điều hành, sa sút về tinh thần trách nhiệm, suy thoái về
phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí. - Hiệu
lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán của các cơ
quan quản lý nhà nước không cao. Tình trạng thực hiện chưa nghiêm túc chủ
trương của Đảng, vi phạm pháp luật, rủi ro, yếu kém, thua lỗ trong doanh
nghiệp nhà nước không được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
VÀ MỤC TIÊU
1- Quan điểm chỉ đạo - Doanh nghiệp nhà
nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn
góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc
công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất
quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những
lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an
ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không
đầu tư. - Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu
quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh
tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy
định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp
nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích.
- Nâng cao chất lượng,
hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò
dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm
doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển
kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. - Cơ cấu
lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường là quá trình thường
xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy
mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, bán
vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ
phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả;
đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà
nước yếu kém. - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm
soát đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để xảy ra thất thoát,
lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu
tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại
hình doanh nghiệp, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực quản trị, phẩm
chất đạo đức để kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà
nước. - Tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ
chức đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội trong giám sát đối với việc cơ cấu lại, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng,
hợp pháp của người lao động, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
2- Mục tiêu Mục tiêu
tổng quát
Cơ cấu lại, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại,
năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, nhằm huy động,
phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn
nhà nước tại doanh nghiệp để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt
và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Mục tiêu đến năm 2020
- Cơ cấu lại, đổi mới
doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2017 - 2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh
vực. Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần
nắm giữ, tham gia góp vốn.
- Tập trung xử lý dứt
điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. - Phấn đấu đáp
ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; nâng cao một bước quan
trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nhà nước.
- Hoàn thiện mô hình
quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư
tại doanh nghiệp. Chậm nhất đến năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách
làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và cổ phần, vốn góp của
Nhà nước tại doanh nghiệp.
Mục tiêu đến năm 2030
- Hầu hết các doanh
nghiệp nhà nước có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần. -
Trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong
khu vực; đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình
thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt.
- Củng cố, phát triển
một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả
năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1- Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước - Căn cứ vào chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, tiến hành
rà soát, xác định rõ số lượng và phạm vi ngành, lĩnh vực cần có doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước để xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm
cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước theo nguyên
tắc: Tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan
trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác không đầu tư; giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để
thay đổi quản trị một cách thực chất và thu hút nhà đầu tư có năng lực thực
sự; tối đa hóa giá trị bán vốn nhà nước theo cơ chế thị trường.
- Rà soát, đánh giá toàn
diện thực trạng và phân loại các doanh nghiệp nhà nước, dự án, công trình đầu
tư và vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có giải pháp cơ cấu lại, xử
lý phù hợp. Kiên quyết xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước, các dự án
đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm
giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp thì
thực hiện cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản. Đối với những
doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc cần nắm giữ cổ phần, vốn
góp chi phối thì cơ cấu lại bằng cơ chế, chính sách phù hợp. - Mở rộng các
phương thức bán cổ phần, vốn góp, kể cả bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước; áp
dụng biện pháp phá sản theo quy định của pháp luật đối với doanh nghiệp nhà
nước lâm vào tình trạng phá sản mà không có phương án phục hồi khả thi. Đối
với những dự án đầu tư thua lỗ, thực hiện cơ cấu lại và chuyển nhượng dự án
cho nhà đầu tư thuộc thành phần kinh tế khác. Làm rõ trách nhiệm và xử lý
nghiêm theo quy định của pháp luật những vi phạm của các tổ chức, cá nhân
liên quan để xảy ra tình trạng doanh nghiệp nhà nước, dự án đầu tư thua lỗ,
thất thoát, lãng phí lớn. - Tuân thủ pháp luật, tôn trọng cơ chế thị trường,
thực hiện lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê duyệt. Bảo đảm công khai, minh bạch trong cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước, nhất là trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh
nghiệp. Áp dụng các phương pháp định giá tài sản tiên tiến phù hợp với cơ chế
thị trường; bảo đảm vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp được
định giá đầy đủ, hợp lý, công khai, minh bạch. Hoàn thiện thể chế về định giá
đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,…)
trong cổ phần hóa theo cơ chế thị trường. Quy định rõ trách nhiệm của tổ chức
tư vấn định giá độc lập trong định giá tài sản, vốn và xác định giá trị doanh
nghiệp. Xác định rõ trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước trong việc kiểm toán
xác định giá trị doanh nghiệp, định giá tài sản, vốn nhà nước. - Trên cơ sở
giá trị vốn, tài sản của Nhà nước và giá trị doanh nghiệp đã được xác định
đầy đủ, hợp lý và theo quy định của pháp luật, khẩn trương bán cổ phần, thoái
vốn một cách công khai, minh bạch, chủ yếu thông qua bán đấu giá cạnh tranh
trên thị trường. Cổ phần hóa phải gắn với niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán. Các doanh nghiệp cổ phần hóa phải niêm yết trong thời hạn một
năm kể từ ngày phát hành cổ phiếu lần đầu. Các doanh nghiệp cổ phần hóa chưa
đáp ứng đầy đủ các điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định của pháp luật
thì phải lập và triển khai kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán trong thời hạn xác định theo quy định.
- Nghiêm cấm và xử lý
nghiêm minh các trường hợp định giá thấp tài sản, vốn của Nhà nước và giá trị
doanh nghiệp không đúng quy định của pháp luật để trục lợi, gây thất thoát
tài sản, vốn nhà nước. - Đối với các doanh nghiệp nhà nước đang được giao
quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư
có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần
hóa, Nhà nước tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc: Nhà nước thống nhất sở hữu
các công trình hạ tầng quan trọng; doanh nghiệp cổ phần hóa, nhà đầu tư nhận
quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình,
dự án kết cấu hạ tầng; việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện
theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch; bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo
vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. - Hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý
của các tài sản trước khi tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa hay thoái vốn nhà
nước tại doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm cơ chế cho thuê đất theo quy định của
pháp luật. Sử dụng có hiệu quả chính sách thuế, phí gắn với nâng cao hiệu quả
công tác quy hoạch đất đai một cách ổn định. Tăng cường quản lý, kiểm soát
chặt chẽ, bảo đảm nhà đầu tư thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước
trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sau cổ phần hóa. - Hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả các thiết chế hiện có để hỗ trợ cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nâng cao năng lực,
hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC),
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và Công ty
Mua bán nợ Việt Nam (DATC), Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp
theo cơ chế thị trường và quy định của pháp luật.
- Khuyến khích, thu hút
các nhà đầu tư chiến lược tham gia mua cổ phần, góp vốn vào doanh nghiệp khi
cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Hoàn thiện tiêu chí cổ đông lớn, cổ đông
chiến lược có đủ năng lực tài chính, công nghệ và quản trị để cơ cấu lại và
phát triển doanh nghiệp. - Giải quyết tốt việc sắp xếp, bố trí, sử dụng cán
bộ; đào tạo, chuyển đổi nghề và xử lý lao động dôi dư. Bảo đảm đầy đủ quyền
lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động, đặc biệt là lao động dôi dư để
ổn định cuộc sống và bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động. Phát huy vai
trò và trách nhiệm của người lao động là cổ đông trong việc tham gia quản lý,
giám sát doanh nghiệp, đồng thời có cơ chế phù hợp bảo vệ quyền lợi của cổ
đông nhỏ. - Thực hiện quyết liệt, có hiệu quả việc sắp xếp, đổi mới và phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp theo Nghị
quyết số 30-NQ/TW, ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị khóa XI. Tổ chức chặt chẽ việc
cổ phần hóa, giải thể các công ty nông, lâm nghiệp, bảo đảm quyền lợi của
người đang nhận khoán đất đai, mặt nước, vườn cây lâu năm và rừng.
- Triển khai đồng bộ các
giải pháp và có cơ chế, chính sách phù hợp để lành mạnh hóa tình hình tài
chính, xử lý dứt điểm tồn đọng tài chính, nợ không có khả năng thanh toán và
các tài sản không sinh lời của doanh nghiệp nhà nước. - Đẩy mạnh thoái vốn
đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, kiên quyết khắc phục tình
trạng đầu tư phân tán, dàn trải. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở
nhiệm vụ được giao, ngành, nghề kinh doanh chính, khai thác tối đa tiềm năng,
thế mạnh; triệt để tiết kiệm chi phí; nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ,
uy tín và thương hiệu trên thị trường.
- Tăng cường đầu tư,
nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu,
ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, sử
dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường, coi đây là yếu tố quyết
định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước. - Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý
tập trung và chỉ sử dụng cho các mục đích chi đầu tư phát triển; không sử
dụng cho chi thường xuyên của ngân sách nhà nước.
2- Tiếp tục đổi mới
cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị
trường
- Doanh nghiệp nhà nước
tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo
cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ giá
thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp
nhà nước để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước. - Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước,
nhất là các quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy
định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.
- Xóa bỏ các cơ chế can
thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử
bất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là
trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội
đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,...
- Phát huy vai trò mở
đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các
chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới.
Hạn chế tình trạng sản xuất, kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch
trong doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước.
3- Đổi mới, nâng cao
hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao năng lực, phẩm chất của
đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
- Xây dựng và áp dụng
khung quản trị doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các doanh
nghiệp nhà nước, nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; đi đôi
với đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và phẩm chất
đạo đức của cán bộ, tạo lập môi trường quản trị doanh nghiệp lành mạnh, hiệu
quả. - Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu với quy
mô lớn, hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế ở
một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế trên cơ sở hoàn thiện mô
hình tập đoàn kinh tế nhà nước theo thông lệ quốc tế; xác định rõ quy mô và
phạm vi hoạt động phù hợp với năng lực quản trị, điều hành; cơ cấu lại bộ máy
tổ chức và cán bộ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân cấp, phân
quyền rõ ràng. - Kiên quyết đấu tranh và thiết lập các hệ thống quản trị,
kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích; tình trạng cán bộ lãnh
đạo, quản lý của doanh nghiệp nhà nước móc ngoặc với cán bộ, công chức nhà
nước và khu vực kinh tế tư nhân để hình thành "nhóm lợi ích",
"sân sau", lạm dụng chức vụ, quyền hạn thao túng hoạt động của
doanh nghiệp nhà nước, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại
cho Nhà nước và doanh nghiệp. - Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của các chức danh quản lý trong hệ thống quản trị của doanh nghiệp nhà
nước; bảo đảm trách nhiệm đi đôi với quyền hạn. Nâng cao tiêu chuẩn, điều
kiện, trách nhiệm của thành viên độc lập trong hội đồng quản trị.
Ban kiểm soát, kiểm soát
viên phải thực sự là công cụ giám sát hữu hiệu của chủ sở hữu, hoạt động độc
lập và không chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo hoặc chi phối về lợi ích của hội đồng
thành viên, hội đồng quản trị và ban điều hành doanh nghiệp. Tổng giám đốc và
các thành viên ban điều hành doanh nghiệp nhà nước do hội đồng thành viên,
hội đồng quản trị bổ nhiệm, thuê và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật và hợp đồng lao động. - Hoàn thiện các hệ thống khuyến
khích, đòn bẩy kinh tế đi đôi với nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương
trong doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù
lao của người lao động và người quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ
chế thị trường, có tính cạnh tranh cao trên cơ sở kết quả sản xuất, kinh
doanh. Nghiên cứu, triển khai cơ chế trả lương, thưởng theo thỏa thuận đối
với tổng giám đốc và một số chức danh quản lý chủ chốt của doanh nghiệp. Áp
dụng hệ thống đánh giá hiệu quả lao động đối với từng vị trí việc làm để xác
định mức độ hoàn thành, năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, làm cơ
sở trả lương, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí và đề bạt cán bộ.
- Thực hiện việc tách
người quản lý doanh nghiệp nhà nước khỏi chế độ viên chức, công chức. Triển
khai rộng rãi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm qua thi tuyển cạnh tranh, công
khai, minh bạch đối với tất cả các chức danh quản lý, điều hành và các vị trí
công việc khác trong doanh nghiệp. - Sắp xếp, tinh gọn và nâng cao hiệu quả
tổ chức bộ máy, biên chế của doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại, bố trí hợp lý
đội ngũ cán bộ; tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo và tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ doanh nghiệp nhà nước; có cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng có hiệu
quả lao động trình độ cao. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ lãnh
đạo của doanh nghiệp nhà nước. Rà soát, nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện về
phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ đối với
người quản lý doanh nghiệp nhà nước. - Bảo đảm tính minh bạch, công khai của
doanh nghiệp nhà nước và trách nhiệm giải trình của người quản lý doanh
nghiệp, đặc biệt là về tài chính, đầu tư, mua sắm, sử dụng vốn của Nhà nước,
chi phí, kết quả kinh doanh, phân phối lợi nhuận, công tác cán bộ, các giao
dịch lớn, giao dịch với người có liên quan đến người quản lý, tài sản và thu
nhập của người quản lý theo các chuẩn mực quốc tế và quy định của pháp luật.
Hoàn thiện chế độ kế toán, kiểm toán và hệ thống báo cáo tài chính phù hợp
với chuẩn mực quốc tế.
4- Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
Hoàn thiện chức năng
quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
- Rà soát, hoàn thiện hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách về doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các
cơ chế, chính sách về tập đoàn kinh tế, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp và cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước
phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, tình hình thực tế và kinh nghiệm
đúc kết được trong thời gian qua. - Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát của cơ quan quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước; phòng ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong doanh
nghiệp nhà nước. Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra, cơ quan
kiểm toán về kết quả thanh tra, kiểm toán đối với doanh nghiệp nhà nước. Hoàn
thiện hệ thống giám sát, tiêu chí đánh giá mức độ an toàn, hiệu quả hoạt
động, xếp loại doanh nghiệp nhà nước và người đại diện chủ sở hữu cổ phần,
vốn góp của Nhà nước. Quản lý, giám sát chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn
của doanh nghiệp nhà nước, nhất là vay nợ nước ngoài, các dự án đầu tư trong
nước và ở nước ngoài, nguồn vốn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp; hạn chế tối
đa cấp bảo lãnh của Chính phủ đối với doanh nghiệp nhà nước; xây dựng và phát
triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất, đồng bộ về doanh nghiệp nhà
nước và vốn, tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp. - Tăng cường công tác chỉ
đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các kế hoạch, phương án cổ phần hóa,
thoái vốn nhà nước đã được phê duyệt. Đề cao trách nhiệm của các bộ, ngành,
địa phương, tổ chức, cá nhân đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là người đứng
đầu trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, kế hoạch, phương án cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được
phê duyệt, đặc biệt là cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, bảo
đảm công khai, minh bạch trong triển khai thực hiện.
Hoàn thiện tổ chức để
thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ
phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp
- Nhà nước thực hiện đầy
đủ trách nhiệm của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ phần, vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp; thực sự đóng vai trò là nhà đầu tư, chủ sở
hữu, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với các nhà đầu tư khác trong
doanh nghiệp. Bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
theo nguyên tắc thị trường. Tôn trọng tính độc lập trong việc thực hiện quyền
và trách nhiệm của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng
thành viên, chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, ban điều hành doanh
nghiệp nhà nước để hoạt động và quản trị của doanh nghiệp nhà nước được thực
hiện một cách minh bạch, giải trình, chuyên nghiệp, hiệu quả cao. - Khẩn trương
thành lập một cơ quan chuyên trách của Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu đối
với doanh nghiệp nhà nước theo hướng: (1) Thực hiện quyền, trách nhiệm của
đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ phần, vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp; (2) Phê duyệt và giám sát việc thực hiện các
chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành; (3) Phối hợp
với các cơ quan có liên quan thực hiện đúng quy định của pháp luật về công
tác tổ chức - cán bộ tại doanh nghiệp.
5- Đổi mới phương
thức và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng; phát huy vai trò của
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
- nghề nghiệp tại doanh nghiệp nhà nước
- Đổi mới mô hình tổ
chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà nước. Đảng
lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong doanh nghiệp nhà nước.
Nâng cao hiệu quả và vai trò lãnh đạo toàn diện của tổ chức đảng tại doanh
nghiệp nhà nước trong việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, xây dựng và thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, sử
dụng, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước, công tác chính trị, tư tưởng,
công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát; đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp,
phát huy dân chủ cơ sở. Quy định rõ trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu tổ
chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước khi để xảy ra thua lỗ, tổn thất trong
hoạt động và vi phạm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 13-2-2017 của
Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của đảng ủy cấp trên
cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối.
- Bảo đảm sự đồng bộ,
thống nhất giữa các quy định của Đảng với các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước về công tác tổ chức và cán bộ dựa trên nguyên tắc: Đảng lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ chính trị và thống nhất quản lý cán bộ trong doanh nghiệp
nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
- Lãnh đạo, chỉ đạo quán
triệt sâu sắc, tuyên truyền sâu rộng, nâng cao nhận thức trong hệ thống chính
trị và sự đồng thuận trong xã hội về quan điểm, mục tiêu, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận đầy
đủ thông tin và tham gia giám sát hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. - Phát
huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giám sát, phản biện
xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và công tác quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là đối với việc thực hiện chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cơ cấu lại, đổi mới và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh
nghiệp nhà nước. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội
- nghề nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về doanh nghiệp nhà nước; bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong doanh nghiệp nhà nước.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo bổ sung
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục
vụ triển khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đối với việc
cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2- Ban cán sự đảng Chính phủ, ban cán
sự đảng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng đoàn,
đảng ủy trực thuộc Trung ương xây dựng chương trình, kế hoạch hành động với
lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm cho các cơ quan, đơn vị thực hiện
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương và đơn vị.
3- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát việc
thực hiện Nghị quyết.
4- Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối
hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng, trình Bộ Chính trị Đề án
đổi mới phương thức lãnh đạo, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của tổ
chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước.
5- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì,
phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức việc học tập, quán triệt và tuyên
truyền sâu rộng Nghị quyết, kết quả thực hiện Nghị quyết.
6- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối
hợp với Văn phòng Trung ương Đảng, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy
trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc triển khai
thực hiện Nghị quyết; thực hiện sơ kết, tổng kết và định kỳ báo cáo Bộ Chính
trị, Ban Bí thư.
|
TheoNhandan