(HBĐT) - Chiến tranh giải phóng miền Nam kết thúc, đất nước thống nhất đã 39 năm. Nhưng dư chấn của nó vẫn còn lại với muôn vàn đau thương, mất mát, hàng vạn phụ nữ mất chồng, hàng triệu người con mất cha. Vậy mà từ trong cuộc chiến ấy đã có những đứa trẻ ra đời. Cha nó là người lính, một thời oanh liệt trên chiến trường Tây Nguyên giờ đây lại không dám nhận đứa con của mình.
Thông tin từ lễ kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng Đắk Tô-Tân Cảnh
CCB Đào Ngọc Phúc 67 tuổi ở phường Phương Lâm (TPHB), nguyên là chiến sĩ pháo ĐKZ C15 - E66 - Bộ tư lệnh Tây Nguyên, nay là Sư đoàn 10 Quân đoàn III, kể cho tôi nghe chuyện về đồng đội sau chiến tranh. Câu chuyện liên quan tới người đồng ngũ năm xưa có con với một nữ du kích ở mặt trận Tây Nguyên. ...Ngày 24/4/2012, ông Phúc cùng đoàn CCB TPHB vượt cả ngàn cây số vào Tây Nguyên dự lễ kỷ niệm 40 năm chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh. Bữa cơm liên hoan gặp mặt đồng đội cũ vừa xong thì có một nhóm phụ nữ khoảng 5, 6 người đến gặp và tự giới thiệu quê ở Quảng Nam, thời kỳ từ 1972 - 1974 tham gia quân biệt động và du kích địa phương, phối hợp với quân chủ lực vận chuyển đạn dược cho chiến trường Tây Nguyên. Gặp được người miền Bắc lại cùng đơn vị, các chị cùng ôn lại kỷ niệm thời chiến và nhờ mọi người tìm giúp anh lính tên Nghiêm. Chuyện là, năm 1972 cùng hoạt động ở khu vực ấp Diên Bình, chị Mai có quen Nghiêm ở đơn vị pháo E66. Tình yêu đã đến với họ rồi chị Mai sinh một bé trai. Đến nay đã 39 năm, mẹ con chị không hề có tin tức gì về anh bộ đội miền Bắc, đến quê anh ở tỉnh nào, chị cũng không còn nhớ. Với người chồng hiện tại, chị Mai có thêm 2 con trai đang sống hạnh phúc tại Đà Nẵng. Phận mình coi như đã an bài nhưng chị vẫn đau đáu một nguyện vọng phải tìm bằng được bố cho con trai - thằng Hưng năm nay đã 39 tuổi mà vẫn chưa hề biết mặt bố.
Khi lên tàu trở về miền Bắc, ông Đào Ngọc Phúc và ông Bùi Tuấn Hải trăn trở với những thông tin vừa được tiếp nhận. Điểm lại, từ tháng 9/2011 -4/2013, hai ông đã vào Tây Nguyên 3 lần, tìm lại được gần 200 hài cốt đồng đội trên đại ngàn núi rừng Tây Nguyên. Việc tìm người còn sống có lẽ không đến nỗi khó khăn bằng công việc tìm hài cốt. Họ quyết tâm phải tìm bằng được Nghiêm, đó cũng là tâm nguyện người lính, là nghĩa tình đồng đội. Hai ông đã đi hầu hết các tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc rồi Đông Bắc, khi về đến Bắc Ninh thì gặp được người đại đội trưởng cũ là Nguyễn Quý Các. Từ đó, họ tìm thêm được một số đồng đội nữa như Nguyễn Vũ Chính, Đại đội phó và Đặng Hồng Ròn ở Hải Dương rồi Nguyễn Đức Bình ở Thái Nguyên để cùng tìm người cha ruột cho Hưng. Thời gian kéo dài gần một năm nhưng mọi chờ mong vẫn vô vọng vì thời gian đó ở đơn vị C15 có tới 6 chiến sỹ tên Nghiêm. Trong số ấy, một người đã hy sinh tháng 4/1975 tại trận mở màn đánh vào thành phố Buôn Mê Thuột, một người khẳng định không có chuyện anh để lại con ở miền Nam, một người khác do bị sức ép của bom đạn lúc đầu nhận, sau đó lại từ chối. Còn một người cũng tên Nghiêm quê ở Hải Dương nhưng đã chuyển vào Tây Nguyên và hai người tên Nghiêm nữa thì chưa tìm thấy địa chỉ. Công việc mò kim đáy bể dẫu sao cũng đã có một đốm sáng ở phía trước cho hai CCB già giàu tình nhân ái. Họ mừng đến phát khóc khi tìm thấy ngay ở huyện Lương Sơn (Hòa Bình) có CCB tên Nghiêm thuộc K8, E66 và một Nghiêm khác ở Vĩnh Phúc, là quân y ở trung đoàn bộ, năm 1972 cũng tham gia chiến đấu ở Diên Bình. Nhưng buồn thay, khi gặp mặt thì hai người này đều phủ nhận và cho đó là câu chuyện lãng mạn, hoang đường. Bằng linh cảm người lính và sự phân tích có lý, có tình, hai ông đã loại trừ tiếp hai người tên Nghiêm ra khỏi danh sách tìm kiếm. Thật bất ngờ là trong lúc tưởng như bế tắc, ngày 13/12/2012, ông Phúc nhận được điện thoại của ông Nguyễn Quang Thanh, cũng là đồng đội cũ từ Buôn Mê Thuột báo tin có một người tên là Nghiêm ở C15 - E66 hiện đang ngồi uống cà phê cùng ông. Linh tính mách bảo, ông Thanh chuyển ngay điện thoại để ông Nghiêm nói chuyện với ông Phúc. Cẩn thận, ông Phúc hỏi vài mật khẩu trong chiến đấu trước đây và họ đã nhận ra nhau. Đến khi ông Phúc hỏi việc ông Nghiêm có đứa con ở Tây Nguyên thì ông lúng túng, nói lảng sang chuyện khác. 15h cùng ngày hôm đó, ông Nghiêm đã chủ động điện thoại tâm sự với ông Phúc, trong đó có đoạn “...Vào khoảng tháng 8/1973 chứ không phải năm 1972 như các ông nói, tôi có quan hệ với một người con gái quê Quảng Nam, sau đó thì chuyển đơn vị. Năm 1980 ra quân, tôi có quay về Kon Tum để tìm lại cô ấy và những người quen biết nhưng chẳng gặp ai. Về Hải Dương được vài năm, tôi đã chuyển cả gia đình vào xã EA Tân, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk khai hoang trồng cà phê cho đến nay”.
Thêm được thông tin quan trọng ấy và móc nối các sự kiện, ba ông Phúc, Hải, Thanh nhận định chắc chắn Nghiêm này là cha của Hưng. Họ nhờ bà Tuyết Xương và bà Hằng (vốn là đồng đội cũ của bà Mai) tìm địa chỉ Hưng đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh và gửi thư cho anh.
Bức thư của người con trai
Ngày 26/12/2012, Hưng trả lời ông Phúc: “...Má cháu Lê Thị Mai. Sinh năm 1949. Lúc đó là Chủ tịch Tân Cảnh 1 - Kon Tum. Ngoại hình: cao khoảng 1m50, tròn trịa, rất dễ thương. Sự việc lúc đó xảy ra giống hệt như các bác kể trong Email. Ba Nghiêm họ gì má cháu không nhớ. Má cháu không biết quê ba ở đâu mà chỉ biết là ngoài Bắc thôi. Ngoại hình ba nhỏ bé, cao khoảng 1m58. Lúc đó , ba Nghiêm là y sỹ quân y của một đơn vị pháo binh.
Thêm một thông tin khác của bà Tuyết Xương và bà Hằng (mà Hưng vẫn gọi là dì) cho biết, tháng 8/2012, hai người đi dự đám cưới ở thành phố Kon Tum tình cờ gặp được má Năm, là cơ sở cách mạng ở thị xã Tân Cảnh thời chiến tranh. Nay gia đình má đã chuyển vào thành phố Kon Tum, má biết khá rõ chuyện của Nghiêm và Mai. Về đến nhà, hai dì gọi điện nhắn lời hỏi thăm của má Năm tới Nghiêm thì anh ta giật mình hỏi lại “ôi! Má Năm vẫn còn sống à?”. Có được chi tiết này, mọi người khẳng định Nghiêm ở Đắk Lắk chính là cha đẻ của Hưng và giao nhiệm vụ cho ông Thanh là người chắp nối để hai ba con gặp nhau. Tháng 7/2013, ông Thanh đã bố trí để Hưng đưa vợ và con gái lên Đắk Lắk gặp cha. Vừa giáp mặt, Hưng bàng hoàng thốt lên “Máu thịt của con đây rồi!”. Mọi người cũng vô cùng ngỡ ngàng vì hai người giống nhau quá, chắc chắn 100% là cha con rồi. Nhưng thật trớ trêu, Nghiêm không nhận Hưng là con! Miễn cưỡng xen lẫn buồn bực, ông Thanh yêu cầu cả hai bên để lại tóc và móng tay để đi xét nghiệm ADN.
Từ hôm đi nhận cha không thành, Hưng suy nghĩ nhiều, càng nghĩ anh càng căm ghét chiến tranh, càng buồn cho thế thái nhân tình. Anh viết thư giãi bày với ba CCB tốt bụng “Có lẽ ba cháu sợ ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình nên mới cư xử như vậy. ông ấy cũng như cháu thôi, đã sống âm thầm, day dứt gần 40 năm qua cũng chỉ mong có một ngày cha con được gặp nhau nhưng điều ấy đã làm cháu thất vọng. Thưa các bác! Dù có thế nào cháu vẫn tôn trọng và yêu quý người đã sinh ra mình. Cháu làm vậy cũng chỉ vì chứng tỏ rằng cháu là đứa con vẫn còn mang trong mình gen chí khí của người chiến binh xưa”.
Đáp lại bức thư của Hưng, ông Phúc viết “Má của con là cán bộ, đảng viên của biệt động do Thị ủy Kon Tum cử xuống tăng cường. Quan hệ giữa ba, má cháu tưởng chỉ có hai người biết? Nhưng không phải vậy, việc ba cháu đột ngột phải chuyển đơn vị đến nỗi không kịp để lại dòng địa chỉ cho người yêu là vì án kỷ luật về tội quan hệ nam nữ. Còn má cháu cũng bị kỷ luật vì quyết tâm giữ lại bằng được cái thai và sinh ra cháu”.
Thay cho lời kết
Ba CCB già trong câu chuyện này bàn nhau trước khi thử ADN sẽ cá cược với Nghiêm, nếu đúng Hưng là con đẻ thì cậu ta phải mất 3,5 tấn cà phê để lấy tiền mua một con bò và lộ phí cho anh em đơn vị pháo binh năm xưa về Đắk Lắk mừng cha con sum họp. Câu chuyện tìm cha cho cháu Hưng sẽ kết thúc. Nhưng đó chỉ là câu nói đùa, còn chiến tranh đâu phải trò đùa, chiến tranh có kết thúc? Điều gì đã làm một chiến binh dũng cảm trong chiến đấu từng là cán bộ nòng cốt được cử về xây dựng cơ sở, cũng đã từng được tặng thưởng Huân chương Chiến công ở ngoài trận tuyến, khi về với đời thường là một công dân gương mẫu, thành đạt phải từ chối giọt máu của mình dù chỉ một lần gặp lại?
Ghi chú: Vì lý do tế nhị, tên ba nhân vật chính trong chuyện đã được thay đổi.
Ghi chép của Hoàng Nghĩa
(HBĐT) - ĐTN cơ quan Tỉnh đoàn, Đoàn phường Chăm Mát vừa phối hợp tổ chức chương trình tọa đàm, giao lưu văn nghệ “Chiến sỹ Điện Biên- Ngày ấy, bây giờ”. Tham gia chương trình có 9 CCB là những chiến sỹ Điện Biên đang sinh sống trên địa bàn thành phố Hòa Bình và hàng trăm ĐVTN, nhân dân trên địa bàn phường.
(HBĐT) - Những ngày cuối tháng 4 này, mỗi khi nhắc đến cụm từ “Chiến thắng Điện Biên Phủ”, ký ức về một thời trai trẻ, ký ức về Tây Bắc lại ùa đến từng đợt, từng đợt trong lòng nghệ sĩ ưu tú Bùi Chí Thanh (tổ 1, phường Chăm Mát (TP Hoà Bình) bởi người nghệ sĩ tuổi ngoài 80 này đã có những tháng năm sống, chiến đấu, phục vụ chiến dịch Điện Biên với cương vị là một chiến sĩ làm công tác văn hoá - văn nghệ, đem lời ca, tiếng hát, điệu múa phục vụ cán bộ, chiến sĩ, dân công và đồng bào Tây Bắc những năm tháng sôi động và đáng nhớ đó.
Đầu tư cho đào tạo nhân lực là một trong những nội dung mà các nhà quản lý, nhà làm phim quan tâm nhiều nhất trong buổi đóng góp ý kiến triển khai “Chiến lược và Quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, diễn ra mới đây tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
(HBĐT) - Tại Sân vận động huyện Đà Bắc, Trung tâm văn hoá thể thao huyện Đà Bắc vừa tổ chức Đêm văn nghệ tuyên truyền với chủ đề “Hướng về Điện Biên”. Đêm văn nghệ có sự tham gia của trên 50 diễn viên, tuyên truyền viên của Trung tâm VHTT, BCH quân sự, Công an huyện, phòng GD&ĐT, trường DTNT huyện và các xã Tu Lý, Hoà Lý, Toàn Sơn, Hiền Lương và thị trấn Đà Bắc và đông đảo nhân dân các dân tộc trong huyện đến xem, cổ vũ.
(HBĐT) - Sáng 28/4, thành phố Hoà Bình đã tổ chức chương trình toạ đàm, gặp mặt, giao lưu văn nghệ với chủ đề "Ký ức Điện Biên" nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954- 7/5/2014). Tham dự chương trình có đại diện lãnh đạo một số Ban, ngành, đoàn thể tỉnh, Thành uỷ, HĐND, UBND thành phố Hoà Bình, Ban liên lạc truyền thống chiến sỹ Điện Biên Phủ tỉnh cùng trên 300 ĐVTN, cán bộ, công chức trên địa bàn thành phố.
(HBĐT) - 5 năm qua, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở huyện Yên Thủy đã trở thành phong trào rộng lớn, tạo được khí thế thi đua sôi nổi, toàn diện trên các lĩnh vực, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, phát huy được sức mạnh của cộng đồng dân cư trong phát triển kinh tế, chính trị xã hội ở địa phương.