(HBĐT) - Quá trình tìm hiểu kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du (1766-1820) đã đạt nhiều thành tựu, trong đó điểm quan sát từ phương hướng nghiên cứu phiên dịch học lịch sử - văn hóa đã có quá trình phát triển lâu dài và ngày càng trở nên quan trọng.

Vấn đề nghiên cứu, xác minh, tìm hiểu lịch sử dịch thuật và tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du trên thế giới không chỉ là mối quan tâm của các nhà Kiều học mà thu hút cả dư luận xã hội, nhất là với việc soạn sách giáo khoa và định hướng nhận thức, cảm thụ, giảng dạy trong nhà trường; đồng thời đã nâng cấp thành đối tượng tìm hiểu, khảo sát chuyên sâu và mở rộng thành các cuộc thảo luận có ý nghĩa khu vực và quốc tế...

 

Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến nay kiệt tác Truyện Kiều đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng với hơn 60 bản dịch khác nhau và xuất bản ở các nước Pháp, Nhật Bản, Anh, Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hy Lạp, Phần Lan, A-rập, Đức, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Mông Cổ, Lào, Thái-lan... Nhiều thứ tiếng có số bản dịch phong phú: Pháp 13 bản, Trung Quốc 11 bản, Anh 7 bản, Nhật Bản 5 bản, Nga và Đức cùng 2 bản... Chủ thể các bản dịch và phương thức dịch cũng khác nhau: có khi là người nước ngoài, có khi là người Việt, có khi là sự cộng tác của hai bên; có khi trực dịch từ cả bản chữ Nôm và Quốc ngữ, có khi dựa riêng bản Quốc ngữ, có khi dịch qua một ngôn ngữ khác; có khi dịch toàn văn, có khi dịch toát yếu; có khi dịch văn xuôi, có khi dịch thành thơ... Các bản dịch tiếng Pháp có khi in song ngữ, có khi in ở Pháp, có khi in tại Việt Nam; các bản dịch tiếng Trung bao gồm cả loại cổ văn và hiện đại, theo thể Đường luật và thơ tự do; có người đã ở Việt Nam và thành thạo tiếng Việt, nhưng có người từ chỗ làm quen Truyện Kiều rồi mới dụng công học tiếng Việt và dịch thành công kiệt tác của Nguyễn Du... Nói như thế để thấy được tính chất đa diện, phức hợp, sinh động của lịch sử phiên dịch Truyện Kiều trải suốt từ giai đoạn cuối thế kỷ XIX cho đến ngày nay. Trong số các trường hợp dịch Truyện Kiều ra nước ngoài, chúng tôi đặc biệt chú ý đến hai hiện tượng sau đây.

 

Thứ nhất, bản dịch Truyện Kiều đầu tiên sang tiếng Nhật của Ko-mát-su Ki-yo-shi (1900-1962) xuất bản ở Tô-ki-ô năm 1942. Dịch giả vốn là nhà văn, nhà phê bình và nghiên cứu văn học Pháp nổi tiếng ở Nhật Bản, được tôn vinh là “biểu tượng của chủ nghĩa nhân văn”. Khoảng năm 1941, trong thời gian qua Việt Nam, ông bắt tay vào dịch Truyện Kiều theo lời khuyên của họa sĩ, nhà thơ Nguyễn Giang (1904-1969), bạn thân gặp nhau từ hồi bên Pháp. Ko-mát-su xác định, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể sánh với các tác phẩm hàng đầu thế giới như Thần khúc của Đan-tê (Dante), Phau-xtơ của Gớt (Goethe), Bi kịch của Xếch-xpia (Shakespeare) và Ra-xin (Racine). Ko-mát-su dịch xong Truyện Kiều trong 6 tháng và xuất bản ngay năm sau, rồi liên tiếp được tái bản vào các năm 1943, 1948...

 

Thứ hai, bản dịch sang tiếng Đức Das Mdchen Kiều/ Nàng Kiều của Phran-xơ Pha-bơ (Franz Faber, 1917-2013), in lần đầu ở Béc-lin vào năm 1964 (tái bản vào các năm 1976, 1980, 2000). Cơ duyên của việc dịch này bắt đầu từ cuối năm 1954, khi Phran-xơ Pha-bơ sang Việt Nam công tác. Trước khi ra về, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cuốn Truyện Kiều song ngữ Việt - Pháp kèm theo câu nói tựa như một lời đề nghị, khuyến khích, động viên, hy vọng: “Biết đâu anh có thể làm được một điều gì đó với cuốn sách này”. Về nước, từ một người chưa biết tiếng Việt, ông đã cùng vợ là I-ren (Irene) vừa học tiếng Việt vừa nghiền ngẫm đọc hiểu, qua 7 năm thì hoàn thành việc dịch toàn văn Truyện Kiều...

 

Có thể thấy, chính các mối quan hệ cá nhân, sự giao cảm giữa những tâm hồn đồng điệu, sự gặp gỡ của những cốt cách trí thức đã giúp cho câu chuyện dịch Truyện Kiều hóa thành duyên nợ, đức hy sinh và ân nghĩa, góp phần bắc cây cầu văn hóa hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với bạn bè thế giới.

Bên cạnh hoạt động dịch thuật, định hướng nghiên cứu so sánh và tiếp nhận Truyện Kiều cũng ngày càng được các nhà Việt Nam học và giới Kiều học quan tâm. Từ việc nghiên cứu kiệt tác Truyện Kiều nội sinh trong truyền thống thơ ca dân tộc (thể thơ lục bát, thể loại truyện thơ) và mối quan hệ trực tiếp giữa Truyện Kiều (Nguyễn Du) với Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân), giới Kiều học đã mở rộng khảo sát, so sánh tính tương đồng ở nhiều cấp độ (truyền thống văn hóa, tư tưởng nhân văn, thế giới nghệ thuật, hình tượng nhân vật, hình thức thể loại, nghệ thuật ngôn từ, phương thức tiếp nhận), giúp cho bạn đọc ngày càng hiểu sâu sắc, toàn diện hơn. Trong điều kiện và vận hội mới của đất nước, chắc chắn kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du sẽ còn tiếp tục mở rộng đường biên trên đường giao lưu và hội nhập văn hóa quốc tế.

            

 

                                                        Theo Báo Nhân dân

 

Các tin khác

Đồng chí Nguyễn Văn Chương, Phó Chủ tịch UBND tỉnh trao bằng khen cho các tập thể có thành tích xuất sắc trong phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” giai đoạn 2011-2015
Các đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Sở VH-TT&DL gặp gỡ, trao đổi cùng các nhà văn tham gia trại sáng tác văn học nghệ thuật Hoà Bình năm 2015.
Tiết mục tham gia liên hoan của đoàn Hòa Bình.
Khu di tích quốc gia đặc biệt Nguyễn Du, thuộc xã Tiên Điền,  huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Lặng lẽ cùng đường phố

(HBĐT) - Phố bắt đầu lên đèn, dòng người càng trở nên tấp nập hơn, người hối hả trở về với gia đình, cùng nhau quây quần bên bữa cơm tối, có người thì vội vã chuẩn bị cho buổi hẹn hò cùng với một nửa yêu thương…

 

Khai mạc trại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2015

(HBĐT) - Ngày 25/11, tại xã Dũng Phong, huyện Cao Phong, Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh phối hợp với UBND huyện Cao Phong tổ chức khai mạc trại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2015.

Xóm Hổ 1 xây dựng khu dân cư kiểu mẫu

(HBĐT) - Đưa chúng tôi đi trên con đường xóm rộng rãi, sạch sẽ, Trưởng xóm Bùi Mạnh Hùng vui vẻ cho biết: Từ đầu năm 2014, xóm Hổ 1, xã Ngọc Lương (Yên Thuỷ) được lựa chọn xây dựng mô hình xóm kiểu mẫu. Xóm có 92 hộ với 370 khẩu. Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người đạt 22 triệu đồng, xóm còn 5 hộ nghèo.

Mai Châu - phát triển du lịch gắn với xây dựng nông thôn mới

(HBĐT) - Cụ thể hóa Nghị quyết số 03, ngày 31/5/2011 của Huyện ủy về việc phát triển du lịch cộng đồng (DLCĐ) gắn với xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015, UBND huyện Mai Châu đã xây dựng đề án phát triển DLCĐ gắn với xây dựng NTM giai đoạn 2011-2015. Thực tế cho thấy đây là chủ trương đúng đắn và phù hợp, mang lại hiệu quả thiết thực với nhiều lợi thế của huyện.

Giữ gìn bản sắc văn hóa trong xây dựng NTM

(HBĐT) - Những năm qua, cùng với thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn quan tâm, chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá thông qua nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục