(HBĐT) - Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975 đã đạt tới đỉnh cao về sự chỉ đạo và vận dụng nghệ thuật quân sự Việt Nam. Một trong những nội dung đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật quân sự, đó là sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy; phối hợp tác chiến của ba thứ quân, lấy đòn đánh của binh đoàn chủ lực làm trung tâm.
Trước những thắng lợi của ta
trong các chiến dịch Tây Nguyên, Trị - Thiên Huế và Đà Nẵng, nhận thấy sự thất
bại và suy sụp nhanh chóng của quân đội Việt Nam Cộng hòa, Bộ Chính trị, Quân
ủy T.ư đã kịp thời chỉ đạo những binh đoàn chủ lực binh chủng hợp thành phát
huy cao nhất khả năng tác chiến của lực lượng tác chiến chiến dịch "thần tốc”
tiến công đánh chiếm các trung tâm quân sự, chính trị của địch, nhanh chóng
tiến về giải phóng Sài Gòn – Gia Định.
Để thực hiện thành công việc giải
phóng Sài Gòn – Gia Định (chiến dịch Hồ Chí Minh), về lực lượng chủ lực ta đã
tập trung khoảng 250.000 quân với 15 sư đoàn, 14 trung đoàn bộ binh (được tổ
chức thành 5 quân đoàn và tương đương) cùng với một khối lượng vũ khí, trang
bị, phương tiện rất lớn như: Pháo binh 516 khẩu, tên lửa, cao xạ 550 khẩu, 320
xe tăng, thiết giáp và một khối lượng vật chất bảo đảm tới gần 60.000 tấn...
Chiến dịch diễn ra lúc 17 giờ
ngày 26/4, liên tiếp trong hai ngày 27 và 28/4, các đòn tiến công quân sự đã
đánh thiệt hại nặng: Sư đoàn 22, cắt đường 4 ở Tân An – Bến Lức; Sư đoàn 18 và
Thiết đoàn 3 quân Việt Nam cộng hòa ở Trảng Bom – Biên Hòa; sư đoàn thủy quân
lực chiến ở Long Bình và lữ dù 1 ở Bà Rịa.
Ngày 29/4, đòn quân sự đã chặn
đánh và tiêu diệt các sư đoàn 22, 25, 5, 18, thủy quân lục chiến, các lữ dù, Lữ
3 kỵ binh ở tuyến ngoài của địch. Cùng ngày, các binh đoàn cơ giới hóa thọc sâu
đã tiêu diệt sư đoàn biệt động quân mới thành lập, các liên đoàn bảo an của
tuyến giữa phòng ngự vùng ven và nhanh chóng vào vùng sát thành phố như Vĩnh
Lộc, Bà Hom, Bà Quẹo, Lái Thiêu, cầu Đồng Nai... Ngày 30/4, các đơn vị chủ lực
tiếp tục đập tan các đơn vị còn lại của địch ở ngã tư Bảy Hiền, Lăng Cha Cả,
Thủ Đức, cổng số 1 Bộ Tổng Tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bình Phước, Bình
Triệu, cầu Sài Gòn, Rạch Chiếc… Các binh đoàn thọc sâu nhanh chóng chiếm các
mục tiêu chiến lược, bắt toàn bộ nội các của địch, buộc Dương Văn Minh phải
tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Các chiến sĩ Binh đoàn Hương Giang cầm cờ tiến thẳng vào Dinh Độc Lập
trưa ngày 30/4/1975 (Người cầm cờ là đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận).
Phối hợp chặt chẽ với các hướng tiến công của các binh
đoàn chủ lực vào sào huyệt cuối cùng của địch, Quân khu 7, thành ủy, thành đội
Sài Gòn - Gia Định đã đưa 1.700 cán bộ cơ sở xuống các xã, phường, quận, huyện
nội thành và ngoại thành, thâm nhập các xí nghiệp, công sở, trường học, các
đoàn thể xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng sẵn sàng nổi dậy,
tiếp lương thực, thực phẩm cho bộ đội khi các cánh chủ lực đánh vào nội đô.
Thành ủy, thành đội cũng cử hàng trăm chiến sĩ biệt động, tự vệ thành ra ngoại
ô dẫn đường cho các cánh quân tiến công vào mục tiêu then chốt như sân bay Tân
Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Dinh Độc Lập, Biệt khu Thủ đô và Nha cảnh sát đô
thành… Các đoàn đặc công, các đội biệt động của Miền, Quân khu 7 và thành đội
Sài Gòn hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang tại chỗ của thành phố lúc này
có: 1 lữ đoàn, 8 trung đoàn, 5 tiểu đoàn và nhiều đại đội cùng với hơn 4.000 du
kích có nhiệm vụ chủ động tổ chức tập kích các sân bay, bến cảng, kho tàng,
trận địa hỏa lực, phát động nhân dân nổi dậy diệt các đồn, bốt nhỏ lẻ, mở rộng
địa bàn đứng chân, đánh chiếm và giữ các đầu cầu. Các lực lượng tại chỗ đã đánh
chiếm hơn 100 mục tiêu lớn nhỏ; chiếm 13 cầu, giữ 10 cầu bảo đảm cho binh đoàn
chủ lực qua sông; chiếm giữ nhiều mục tiêu quan trọng… Khi 5 cánh quân của các
binh đoàn chủ lực tiến công đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố, các lực
lượng này đảm nhiệm việc dẫn đường và làm nòng cốt cho quần chúng nổi dậy giành
chính quyền.
Sự phối hợp giữa tiến công quân sự với sự nổi dậy của
quần chúng nhân dân Sài Gòn – Gia Định đã lên tới cao trào với 107 điểm quần
chúng nổi dậy (31 điểm ở ngoại thành và 76 điểm ở ngoại thành; trong đó, 32
điểm diễn ra trong ngày 29/4 và 75 điểm trong ngày 30/4).
Lực lượng quần chúng ở ngoại thành dựa vào áp lực đánh
lướt qua của các binh đoàn chủ lực và sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tại chỗ
đã xông vào phá hủy các đồn, bốt, làm công tác binh vận, chiếm nhiều trụ sở xã,
ấp; chiếm trụ sở các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Gò Vấp, Thủ Đức; thu
các giấy tờ, hồ sơ hạ cờ của chính quyền Việt Nam cộng hòa, treo cờ giải phóng.
Lực lượng vũ trang tại chỗ và quần chúng nhân dân đã chiếm nhiều cơ sở kinh tế, quân sự, chính trị cử
đại diện chính quyền cách mạng, tham gia giải phóng các huyện ngoại thành.
Ở nội thành, khi các cánh quân chủ lực tiến vào thì
quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ đã nổi dậy, đánh chiếm đồn,
bốt, treo cờ, vận động – uy hiếp làm tan rã cảnh sát, dân vệ, chiếm trụ sở
khóm, phường, cơ quan hành chính quận. Nhờ có sự nổi dậy của quần chúng và lực
lượng vũ trang tại chỗ đến chiều ngày 30/4 ta đã cơ bản làm chủ và kiểm soát
tất cả các huyện, quận, xã, phường của thành phố Sài Gòn – Gia Định.
Như vậy, chiến dịch Hồ Chí Minh được tiến hành với các
đòn tiến công quân sự mạnh mẽ của các binh đoàn chủ lực, đã tạo ra động lực và
thời cơ để các lực lượng vũ trang địa phương hoạt động có hiệu quả, hỗ trợ đắc
lực cho các hoạt động nổi dậy của quần chúng nhân dân. Đồng thời, hoạt động
rộng khắp của các lực lượng vũ trang địa phương và sự nổi dậy của quần chúng
nhân dân lại tạo ra thế và lực cho các binh đoàn chủ lực tác chiến. Hành động
phối hợp tác chiến của các lực lượng vũ trang địa phương và sự nổi dậy của quần
chúng nhân dân đã có tác dụng rất to lớn hỗ trợ cho các đòn tiến công quân sự
của các binh đoàn chủ lực.
Theo
Báo QĐND điện tử