Đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh

Đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh

(HBĐT) - Báo cáo tình hình Kinh tế - xã hội năm 2010 và nhiệm vụ năm 2011 do Chủ tịch UBND tỉnh Bùi Văn Tỉnh trình bày tại kỳ họp thứ 21 - HĐND tỉnh khóa XIV.

 

Thưa các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh,

Thưa các vị đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh,

Thưa toàn thể nhân dân, đồng chí và các bạn

 

Để chuẩn bị cho kỳ họp này của Hội đồng nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã gửi đến các vị đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011; Báo cáo kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2010, dự toán ngân sách nhà nước năm 2011, cùng với nhiều báo cáo chuyên đề khác([1]).

 

Hôm nay, thay mặt Uỷ ban nhân dân tỉnh, tôi xin báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh và nhân dân trong tỉnh một số vấn đề lớn về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2011.

 

                                                Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2010

 

Sau 2 năm (2008 và 2009) chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, tỉnh Hoà Bình bước vào năm 2010 với nhiều thuận lợi hơn, nhưng cũng tiềm ẩn không ít khó khăn, thách thức. Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế trong nước và của tỉnh, ngay từ cuối năm 2009, Ủy ban nhân dân tỉnh đã trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 với mục tiêu tổng quát là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; ngăn chặn lạm phát trở lại; bảo đảm an sinh xã hội, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.

Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15/01/2010 của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 119/QĐ-UBND ngày 26/01/2010 về Kế hoạch chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2010 với 6 nhóm giải pháp; tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt, huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, kết cấu hạ tầng, đảm bảo an sinh xã hội.

Trên cơ sở tình hình 11 tháng đầu năm và dự báo mức thực hiện trong tháng cuối năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 trên các nội dung chủ yếu như sau:

I. NHỮNG KẾT QUẢ CHỦ YẾU

1. Ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao

Tăng trưởng GDP năm 2010 cho thấy kinh tế của tỉnh đã ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. GDP cả năm 2010 tăng khoảng 12,5%, cao hơn chỉ tiêu Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra([2]). Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4%, công nghiệp và xây dựng tăng 21,4%, dịch vụ tăng 12%. Với kết quả này, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt khoảng 12,14%/năm([3]).

Năm nay, mặc dù tình hình hạn hán kéo dài, dẫn đến thiếu nguồn nước phục vụ suất sản xuất điện của Công ty thủy điện Hòa Bình, làm giảm công suất và hụt thu ngân sách nhà nước (khoảng 130 tỷ đồng), nhưng nhờ những giải pháp phù hợp, thu ngân sách nhà nước vẫn đạt 1.222 tỷ đồng, vượt 12% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao và đạt 101% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh, tăng 10% so với năm 2009. Đạt được kết quả trên là do tiếp tục thực hiện tốt các luật thuế; những ưu đãi của các luật thuế đã được thực hiện khá đầy đủ, tác động tốt đến sản xuất kinh doanh. Công tác kiểm tra chống thất thu, chống gian lận thương mại, trốn lậu thuế, thu hồi nợ đọng ở nhiều lĩnh vực, địa bàn đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác cải cách hành chính trong quản lý thu ngân sách tích cực triển khai thực hiện; tổ chức đối thoại với doanh nghiệp, tổng hợp kịp thời những vướng mắc, khó khăn, để có giải pháp xử lý hiệu quả góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, mở rộng nguồn thu.  

Thu ngân sách địa phương tiếp tục thu được kết quả khá với 4.608 tỷ đồng, đạt 142% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao và đạt 141% Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh, tăng 6% so với thực hiện năm 2009. Từ đó, tạo thuận lợi hơn trong việc chủ động thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách địa phương năm 2010, đặc biệt là trong bối cảnh nhu cầu chi cho các lĩnh vực kinh tế, xã hội của tỉnh ngày càng lớn. Các khoản chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên, chi chương trình mục tiêu quốc gia,...đều tăng so với năm 2009 và so với Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh, đã góp phần tích cực trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh([4]). Nhìn chung, chất lượng công tác quản lý tài chính được nâng lên; các quy định của pháp luật đã được thực thi nghiêm túc. Ngoài sự nỗ lực của các đơn vị, địa phương, có được kết quả này là do hiệu quả công tác quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân các cấp, tác động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra,…Chính sách chế độ quản lý tài chính, ngân sách đã đầy đủ, chặt chẽ hơn. Nhiều cơ chế, chính sách mới rõ ràng, minh bạch, đã đi vào thực tiễn.

Các chính sách tiền tệ do Chính phủ ban hành đã góp phần quan trọng cho quá trình phục hồi kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, ngăn chặn lạm phát cao trở lại, tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội, góp phần ổn định kinh tế. Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định trở lại, lãi suất thị trường đã nằm trong ngưỡng kiểm soát của ngân hàng nhà nước, tiền gửi dân cư tăng, đầu tư của tổ chức kinh tế tăng, thanh khoản và tiền mặt cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu phát triển kinh tế, lòng tin của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế đối với hệ thống ngân hàng và đối với chủ trương, chính sách do hệ thống ngân hàng thực hiện ngày càng được nâng cao.

Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 15% so với năm 2009; kết quả giải ngân vốn Nhà nước khá cao và có tiến bộ trong điều hành, đến hết tháng 11, đạt khoảng trên 80% và dự kiến cả năm sẽ đạt kế hoạch; nhờ đó sớm hoàn thành nhiều công trình kết cấu hạ tầng, tạo thêm cơ sở sản xuất mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng. Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo phân bổ và kiểm tra, giám sát thực hiện chặt chẽ các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, tranh thủ vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA, vốn tín dụng phát triển để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tạo thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng hoá; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội; tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, việc tiến hành khởi công xây dựng tuyến đường cao tốc Hòa Lạc – thành phố Hòa Bình, cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 12B, Quốc lộ 21, đường 12B và đưa vào hoạt động một số nhà máy sản xuất xi măng sẽ góp phần tạo đà tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong những năm tới.  

Năm 2010, đã cấp giấy chứng nhận cho 70 dự án với tổng số vốn đăng ký là 13.212 tỷ đồng và 36 triệu USD, nâng tổng số dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh lên 302 dự án, trong đó có 19 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 123,6 triệu USD và 283 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký 28.857 tỷ đồng([5]); đã có 108 dự án hoàn thành, đưa vào sản xuất, kinh doanh (đạt 36%). Có khoảng 325 doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 2.500 tỷ đồng; bình quân đạt khoảng 7,6 tỷ đồng/doanh nghiệp, góp phần quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh và tạo thêm nhiều việc làm mới.

2. Bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn

Trong điều kiện phải giảm bội chi ngân sách, nhưng các lĩnh vực văn hóa và xã hội vẫn được quan tâm chăm lo tốt hơn, góp phần thiết thực ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. GDP bình quân đầu người ước đạt 13,4 triệu đồng. Tạo được khoảng 16.500 việc làm mới; dự kiến đến cuối năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 25%.

Công tác giảm nghèo được triển khai đồng bộ với các giải pháp trợ giúp thiết thực cả về sản xuất và đời sống. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống ước còn 14%. Chương trình xây dựng nông thôn mới đang được triển khai tích cực([6]). Chính sách trợ giúp người có công, bảo trợ xã hội tiếp tục được hoàn thiện, đã mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức trợ cấp. Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục phát triển. Số người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đều tăng, góp phần tích cực vào giảm thiểu thiệt hại và khó khăn cho người tham gia khi gặp rủi ro([7]).

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới đã được quan tâm hơn, nhiều mặt đạt được kết quả tích cực, đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh. Dịch bệnh được khống chế và đẩy lùi. Hệ thống cơ sở y tế, giáo dục và đào tạo tiếp tục được củng cố và phát triển([8]). Tích cực triển khai thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, cơ chế tài chính, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và đổi mới phương pháp giảng dạy. Cùng với việc tăng đầu tư của Nhà nước, đã đẩy mạnh xã hội hoá để nâng cấp cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo. Đã kết nối internet cho tất cả các trường phổ thông. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia bậc mầm non và các cấp học phổ thông tăng nhanh; 100% huyện, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; kỷ cương trong thi cử đã được thực hiện tốt hơn.

Văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao có bước phát triển. Thông tin báo chí đã góp phần quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kịp thời phản ánh ý kiến nhân dân về các vấn đề của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh. Các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật có bước phát triển mới, làm tăng tính đa dạng của sản phẩm văn hoá, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được quan tâm thực hiện. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú. Hoạt động du lịch diễn ra sôi nổi, lượng khách đến Hòa Bình tăng 43% so với năm 2009 (trong đó khách quốc tế tăng 68%); doanh thu hoạt động du lịch tăng 15% so với năm 2009.

3. Khoa học, công nghệ, thông tin, truyền thông, bảo vệ môi trường đạt được kết quả tích cực

Cơ chế, chính sách quản lý và phát triển khoa học, công nghệ tiếp tục được hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ. Nhiều đề tài khoa học đã bám sát nội dung và đạt được mục tiêu đề ra, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương([9]). Chú trọng bảo đảm an toàn, an ninh thông tin bưu chính, viễn thông và internet trong tình hình mới. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các dịch vụ bưu chính, viễn thông, nhất là hạ tầng các mạng điện thoại di động trên toàn tỉnh([10]).

Công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường đã được chú ý chấn chỉnh một bước. Công tác thanh tra, kiểm tra việc cấp phép và chấp hành pháp luật về khai thác khoáng sản được tăng cường. Đã xây dựng, triển khai chiến lược khai thác, sử dụng khoáng sản nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Công tác quản lý tài nguyên đất, tài nguyên nước được quan tâm hơn([11]).

Công tác bảo vệ môi trường được coi trọng và tập trung chỉ đạo đồng bộ, có hiệu quả; thực hiện các giải pháp phòng ngừa ô nhiễm; tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm. Công tác đánh giá tác động môi trường và giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm ở các dự án đầu tư mới được kiểm soát chặt chẽ hơn. Xử lý chất thải rắn đô thị, chất thải rắn y tế được đẩy mạnh. Việc bảo đảm nước sinh hoạt cho nhân dân được quan tâm, đến nay đã có 80% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. Trồng và bảo vệ rừng có tiến bộ, đến cuối năm 2010, độ che phủ rừng đạt 46%.

4. Cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm đạt được những kết quả tích cực

Cải cách hành chính tiếp tục được coi là một khâu đột phá với các nội dung kiện toàn tổ chức bộ máy và cải cách thủ tục hành chính. Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính được triển khai đồng bộ, chuẩn hóa và thống nhất thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền. Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo nguyên tắc tăng tính công khai, minh bạch và giảm phiền hà nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, việc ứng dụng công nghệ thông tin... đã phát huy hiệu quả thiết thực. Công tác kiểm tra, xử lý và theo dõi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh.

10 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước (2001-2010) thu được kết quả tích cực; công tác cải cách hành chính của tỉnh được tiến hành đồng bộ, sát với các nội dung chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Bộ máy hành chính được tổ chức khoa học, gọn nhẹ hơn theo hướng đa ngành nhưng vẫn phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh. Hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước được nâng cao; chế độ công khai, minh bạch được duy trì. Công tác ban hành văn bản tiếp tục được đổi mới về chất lượng; nhiều quy trình, thủ tục hành chính được đơn giản, công khai, tạo thuận lợi cho tổ chức và cá nhân. Cùng với đó, đã thực hiện tốt việc tuyển dụng công chức, viên chức; tiếp tục đầu tư cho đào tạo nâng cao trình độ và tăng cường kỷ cương hành chính, góp phần nâng cao chất lượng, thái độ, ý thức phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức([12]). Sau 10 năm thực hiện Chương trình, trụ sở các cơ quan hành chính các cấp được đầu tư cơ bản, thiết bị làm việc được đầu tư khá hiện đại. Việc áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng ISO và tin học hoá các cơ quan hành chính có bước đi vững chắc, đạt hiệu quả rõ rệt trong chỉ đạo, điều hành.

Phân cấp thẩm quyền ở nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước đi đôi với thực hiện tốt chính sách quản lý tài chính công theo cơ chế khoán biên chế và kinh phí đã góp phần thay đổi phương thức quản lý, nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của các địa phương, đơn vị.

 Công tác phòng, chống tham nhũng có những tiến bộ, kiện toàn bộ máy chỉ đạo, thực hiện các giải pháp phòng ngừa và kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử. Triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và thực hiện các cuộc đối thoại đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân về hoạt động phòng, chống tham nhũng.

5. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường

Đã từng bước nâng cao chất lượng, tăng cường sức mạnh cho quân sự, công an. Các lực lượng chức năng đã chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện và đấu tranh làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Các sự kiện lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao của tỉnh được bảo vệ an toàn. Công tác phòng ngừa và đấu tranh, trấn áp tội phạm được triển khai thực hiện có hiệu quả. 

Công tác quốc phòng và an ninh tiếp tục được coi trọng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Các lực lượng vũ trang nhân dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ vững chắc. Kiên quyết xử lý đúng pháp luật các hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền, chính sách tôn giáo, dân tộc để phá hoại và gây mất trật tự an toàn xã hội. Công tác phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội được quan tâm chỉ đạo và đã có những kết quả thiết thực.

            Lực lượng công an các cấp đã làm tốt chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh - trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng chống ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em([13]). Tổ chức triển khai thực hiện tốt các phương án kế hoạch bảo vệ an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm; hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các đoàn khách quốc tế đến thăm, làm việc tại tỉnh.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm chỉ đạo. Việc phối hợp giữa các cấp, các ngành chức năng và tăng cường đối thoại giữa cơ quan hành chính với người khiếu nại, tố cáo đã góp phần xử lý dứt điểm nhiều vụ việc, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài.

            II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh trong năm qua còn những khó khăn, hạn chế, yếu kém:

1. Năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh kinh tế còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn do hạn hán, thiếu nước tưới, một số nơi xuất hiện dịch bệnh đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và đời sống người lao động khu vực nông thôn. Hạn hán cũng làm thiếu nguồn nước phục vụ sản xuất điện của Công ty thủy điện Hòa Bình, dẫn đến giảm công suất, hụt thu ngân sách nhà nước([14]).

Tình trạng cắt điện luân phiên đã làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, đặc biệt là đối với sản xuất của các doanh nghiệp và hoạt động công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước; đồng thời, cũng làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp do ngưng trệ sản xuất, giảm sản lượng sản phẩm đầu ra. Lãi suất các tổ chức tín dụng cao.

2. Dự toán ngân sách nhà nước nhiều đơn vị, địa phương lập và được giao chưa tích cực, chưa sát thực tế; một số yếu kém chậm khắc phục: Chi quản lý hành chính vượt dự toán; tạm ứng, chi hỗ trợ chưa đúng quy định; sử dụng dự phòng chưa hợp lý; ghi thu, ghi chi ngân sách các khoản thu để lại chi quản lý qua ngân sách không kịp thời, đầy đủ; sử dụng vượt thu không đúng thẩm quyền; quản lý đầu tư xây dựng cơ bản còn nhiều bất cập, yếu kém ở cả 3 khâu: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, quyết toán công trình đưa vào sử dụng.

3. Tiến độ thực hiện một số dự án cũng như giải ngân các nguồn vốn đã được cải thiện. Tuy nhiên do nhu cầu đầu tư lớn, ngân sách có hạn nên nhiều công trình còn thiếu vốn, ảnh hưởng đến tiến độ, thậm chí đến chất lượng dự án, công trình. Đầu tư kết cấu hạ tầng trên một số lĩnh vực còn thấp, nhất là về hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục và đào tạo, du lịch...

4. Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ tuy đã thực hiện đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa nhận được sự quan tâm tích cực của một số cơ quan và thủ trưởng một số đơn vị, làm ảnh hưởng đến tiến độ, chất lượng của việc thống kê thủ tục hành chính. Việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước 10 năm (2001-2010) vẫn còn chậm về tiến độ, chưa nhất quán; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhiều nơi chưa cao do lúng túng về nội dung và cách làm. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, còn không ít cán bộ chưa nhận thức đầy đủ về cải cách hành chính, chưa quan tâm thường xuyên nên thiếu chỉ đạo sâu sát; nhiều cơ quan chậm ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hoá công sở. Tính cục bộ ngành, địa phương vẫn tồn tại; tình trạng chưa muốn phân cấp hoặc chưa đủ sức nhận nhiệm vụ đã dẫn đến trì trệ hoặc xử lý sai quy định. Việc xây dựng và thực hiện các quy chế nội bộ thiếu cụ thể; tình hình hội họp, thủ tục hành chính tuy giảm song vẫn còn rườm rà; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa triệt để...

Công tác chỉ đạo, điều hành còn những yếu kém, nhất là khâu tổ chức thực hiện, phối hợp trong hệ thống chính trị chưa hiệu quả, chất lượng thấp; nhiều chỉ thị, nghị quyết, văn bản chỉ đạo, điều hành từ các cấp chính quyền chưa đến được với người dân hoặc không kịp thời, làm giảm hiệu quả, hiệu lực công vụ; ý thức, trách nhiệm công vụ một số cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính chậm được đổi mới; một bộ phận cán bộ từ cấp xã đến một số cơ quan cấp tỉnh còn yếu về năng lực chuyên môn, còn gây nhũng nhiễu, phiền hà đối với doanh nghiệp và người dân; lãnh đạo một số cơ quan chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức của ngành, đơn vị mình;

5. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao. Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động; chuyển dịch cơ cấu lao động từ sản xuất nông nghiệp sang làm công nghiệp, dịch vụ còn thấp. Chế độ tiền lương chưa hợp lý, nhất là khu vực hành chính công. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân vẫn còn không ít khó khăn, yếu kém; quản lý giá một số mặt hàng nhất là giá sữa, giá thuốc chữa bệnh và một số mặt hàng thiết yếu chưa tốt; công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm hiệu quả chưa cao.

Việc xây dựng đời sống, lối sống văn hoá chưa tạo được nhiều chuyển biến trong việc bồi dưỡng, phát huy các nhân tố tích cực, đẩy lùi tiêu cực. Các hoạt động lễ hội chưa được quản lý tốt; nhiều hoạt động còn tự phát, thiếu chọn lọc, phô trương hình thức, lãng phí. Tệ nạn xã hội ở một số nơi còn diễn biến phức tạp; tai nạn giao thông vẫn còn là vấn đề bức xúc.

6. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo vẫn còn bất cập. Chất lượng giáo dục đào tạo không đồng đều, chậm được cải thiện; nội dung và chương trình đào tạo nghề nghiệp, phương pháp dạy và học chậm được đổi mới. Phát triển giáo dục đào tạo ở các vùng khó khăn còn nhiều hạn chế. Tình trạng vi phạm đạo đức trong nhà trường còn diễn ra ở nhiều nơi, gây bức xúc trong xã hội.

7. Công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vẫn chưa tạo được kết quả mang tính đột phá góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này còn thấp, chưa có cơ chế phù hợp để huy động mạnh mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển khoa học và đổi mới công nghệ. Công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên khoáng sản còn nhiều yếu kém, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước còn thấp; ý thức về bảo vệ môi trường trong xã hội chưa cao, nguồn lực cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu.

8. Thể chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, vừa làm hạn chế hiệu quả quản lý, vừa dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Việc phân cấp mạnh quản lý nhà nước trong khi chưa có quy hoạch phù hợp, thiếu kiểm tra, giám sát nên thực hiện còn tuỳ tiện, dẫn đến tình trạng đầu tư trùng lặp, phân tán, hiệu quả thấp, lãng phí nguồn lực. Công tác thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, chất lượng thấp. Một bộ phận cán bộ, công chức yếu kém về năng lực, phẩm chất, lạm dụng quyền hạn, vi phạm pháp luật. Kết quả phòng,chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm còn hạn chế.

Nhìn tổng quát, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quản lý có hiệu quả của Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh và chính quyền các cấp cùng với sự đồng thuận, nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp, của nhân dân trong tỉnh, chúng ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện; cơ bản hoàn thành mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu đề ra cho năm 2010. Kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.

Những kết quả trên đây đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng: Việc khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, tăng cường ổn định kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững vẫn là những thách thức lớn, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị trong năm 2011 và những năm tiếp theo.

 

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2011

 

Năm 2011 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần  thức XI, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội năm 2011-2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 5 năm 2011-2015. Năm 2011 cũng là thời gian nước ta vừa bước vào ngưỡng phát triển nhóm các nước có thu nhập trung bình; kinh tế Việt Nam có xu hướng phục hồi khá nhanh trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, thị trường trong nước có dấu hiệu khởi sắc, thị trường hàng hóa đã bước đầu khôi phục lại đà tăng trường, hoạt động thương mại, dịch vụ có nhiều cơ hội để phát triển thị trường mới.

Tuy nhiên một số bất ổn về kinh tế vĩ mô còn tiềm tàng và nguy cơ tác động vào nền kinh tế nước ta là rất lớn như: Lãi suất ngân hàng tăng cao, nhập siêu còn khá lớn, giá cả có nguy cơ tăng,…những vấn đề liên quan đến diễn biến hòa bình, an ninh biển Đông, an ninh trật tự và an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.

Đối với tỉnh Hòa Bình, năm 2011 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và kế hoạch phát triển 5 năm 2011 – 2015 với những thay đổi quan trọng về tư duy và tầm nhìn, sẽ mở ra một triển vọng phát triển mới cho tỉnh nhà. Việc mở rộng thủ đô Hà Nội về phía Tây Nam cũng tạo nhiều thuận lợi cho tỉnh, tranh thủ thời cơ mở rộng thị trường, thu hút đầu tư để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội.

I. MỤC TIÊU, CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH NĂM 2011

1. Mục tiêu tổng quát

Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ, trên cơ sở ưu tiên tập trung cho các ngành, các vùng động lực tăng trưởng; đồng thời đảm bảo nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững; phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, đô thị, kết nối các vùng trong tỉnh với vùng động lực; xoá bỏ các rào cản đối với sự liên kết kinh tế, trao đổi hàng hoá và thu hút lao động. Từng bước thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; tiếp tục thực hiện công cuộc xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho nhân dân; giữ gìn và phát huy các nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, xã hội với quốc phòng, an ninh và đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

 2. Các chỉ tiêu chủ yếu

(1) Các chỉ tiêu kinh tế:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 dự kiến đạt 13%. Trong đó: Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 4%; công nghiệp - xây dựng tăng 19,3% (công nghiệp tăng 22%; xây dựng tăng 12,5%); dịch vụ tăng 14,5%.

- Cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 32,5%; công nghiệp - xây dựng 33,2%; dịch vụ 34,3%.

- GDP theo giá hiện hành: 12.319 tỷ đồng.

- GDP bình quân đầu người: 15,3 triệu đồng.

- Tổng đầu tư toàn xã hội: 5.953 tỷ đồng.

- Tổng thu ngân sách nhà nước: 1.500 tỷ đồng.

- Tổng chi ngân sách địa phương: 4.287 tỷ đồng.

- Giá trị xuất khẩu: 56 triệu USD. Giá trị nhập khẩu: 38,5 triệu USD.

- Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ, dịch vụ tiêu dùng 6.000 tỷ đồng.

- Chỉ số giá tiêu dùng tăng < 10%.

 (2) Các chỉ tiêu xã hội:

- Giảm tỷ lệ sinh 0,3‰; quy mô dân số 802,6 nghìn người. 

- Tạo việc làm cho trên 16.500 lao động.

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo: 29%.

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo 3,5%/năm.

- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống 22%.

  - Giảm tỷ lệ chết trẻ em dưới 1 tuổi xuống 16,8%o.

  - Giảm tỷ lệ chết trẻ em dưới 5 tuổi xuống 20,85%o.

   - Số giường bệnh/1 vạn dân: 21,4 giường.

   - Số bác sĩ/1 vạn dân: 6,69 bác sĩ.

  - Tỷ lệ hộ sử dụng điện: 95,4%.

(3) Các chỉ tiêu môi trường:

- Cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho nông thôn: 83,5%.

- Tỷ lệ chất rắn y tế được xử lý: 100%.

- Tỷ lệ các khu đô thị có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường: 40%.

- Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom: 86,7%.

- Tỷ lệ các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường: 26,3%.

- Trồng rừng mới 8.000ha; tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 46%.

 

II. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

(1) Thực hiện đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy mạnh huy động, thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ theo hướng tăng trưởng nhanh, bền vững, đồng thời chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và mức sống của nhân dân. Để thực hiện được mục tiêu như trên, cần tập trung vào công tác cải thiện môi trường đầu tư, cải thiện chỉ số môi trường kinh doanh (PCI), tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư bên ngoài, phát huy các nguồn lực trong tỉnh phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ngay trong năm 2011; đồng thời đặt nền móng cho tăng trưởng nhanh và bền vững những năm tiếp theo; trong đó thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu: 

Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ, đặc biệt là thủ tục liên quan đến thu hút đầu tư, môi trường kinh doanh, quản lý đầu tư xây dựng, quy hoạch, quản lý đất đai. Tạo bước đột phá về cải cách thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt liên quan đến đất đai, cấp giấy chứng nhận đầu tư, thủ tục đầu tư, đăng ký kinh doanh, quản lý sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Đẩy mạnh phân cấp quản lý để nâng cao tính chủ động sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.

Tiếp tục đầu tư kết cấu hạ tầng, nhanh chóng đưa các dự án hoàn thành vào sử dụng phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội. Thực hiện cơ cấu lại đầu tư ngân sách theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư cho hạ tầng công nghiệp và dịch vụ. Phân tách rõ các chương trình hỗ trợ của ngân sách Trung ương cho xóa đói giảm nghèo, các vấn đề văn hóa, xã hội và nguồn vốn của tỉnh tập trung đầu tư cho hạ tầng kinh tế, kỹ thuật phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thúc đẩy công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời cơ cấu lại đầu tư, cơ chế chính sách để phát triển nguồn nhân lực địa phương trước mắt cũng như trong dài hạn, vừa phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vừa tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo.

(2) Thực hiện tốt dự toán ngân sách nhà nước năm 2011

Tăng cường quản lý, điều hành thu ngân sách nhà nước; thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị của cấp ủy, chính quyền về chống thất thu ngân sách nhà nước. Đẩy mạnh công tác giao đất, đấu giá đất, đặc biệt là các dự án ven tuyến đường Hòa Lạc – thành phố Hòa Bình để tạo nguồn đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Hoà Lạc – thành phố Hoà Bình. Ưu tiên tập trung thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh; giải quyết các nhiệm vụ chi thường xuyên, tạo sự chuyển biến mạnh về ý thức tiết kiệm, chống lãng phí trong chỉ đạo, quản lý và điều hành ngân sách. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, chống lãng phí thất thoát ngay từ khi xác định chủ trương đầu tư, chuẩn bị đầu tư, đền bù giải phóng mặt bằng, thực hiện dự án và kết thúc dự án. Thực hiện điều chỉnh vốn từ những dự án không có khả năng triển khai, sang dự án có tiến độ triển khai tốt để sớm phát huy hiệu quả đầu tư.

Các ngành không tự đặt ra các quy định trái với quy định của Luật Ngân sách nhà nước, làm ảnh hưởng đến quá trình điều hành dự toán ngân sách của đơn vị thụ hưởng. Thủ trưởng đơn vị thụ hưởng ngân sách phải thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, đảm bảo việc mua sắm tài sản, trang thiết bị đúng tiêu chuẩn, định mức, đúng quy định, chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước được giao trong dự toán, gắn trách nhiệm của thủ trưởng và người phụ trách công tác tài chính - kế toán trong việc quản lý sử dụng ngân sách, tài sản, đất công tại đơn vị. Tăng cường giám sát của tổ chức chính trị, xã hội và quần chúng nhân dân; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật tài chính trong quản lý, sử dụng kinh phí có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước và các nguồn khác phát hiện sau thanh tra, kiểm tra theo đúng quy định của pháp luật.

(3) Các giải pháp phát triển vùng động lực, ngành mũi nhọn về kinh tế

Năm 2011 tiến hành quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng động lực, đồng thời xây dựng cơ chế, bố trí các nguồn lực đầu tư cho vùng động lực kinh tế (thành phố Hòa Bình, huyện Kỳ Sơn, huyện Lương Sơn, bắc huyện Lạc Thủy). Tiến hành quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, thu hút đầu tư tại 7 khu công nghiệp (Yên Quang, Lương Sơn, Nhuận Trạch, Nam Lương Sơn, Thanh Hà, Bờ trái sông Đà, Mông Hóa) và 8 cụm công nghiệp (Hòa Sơn, Vitaco, Cao Thắng, Thanh Nông, Phú Thành I, Phú Thành II, Phú Minh, Thái Bình). Tiếp tục đầu tư hạ tầng thành phố Hòa Bình, thị trấn Lương Sơn, đường cao tốc Hòa Lạc – thành phố Hòa Bình. Kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ đẩy nhanh việc đầu tư, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Hà Đông – thành phố Hòa Bình.

Quy hoạch và nghiên cứu cơ chế phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của tỉnh (sản xuất vật liệu xây dựng, trước hết là quy hoạch sản xuất xi măng, gạch, đá xây dựng, các ngành công nghiệp điện tử, may mặc, lắp ráp linh kiện ô tô, xe máy, rượu bia, nước giải khát, chế biến nông, lâm sản, các lĩnh vực du lịch, thương mại, vận tải,...).

(4) Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn

Phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện theo hướng đảm bảo nâng cao đời sống nhân dân vùng nông thôn, vùng  đặc biệt khó khăn, từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường tiêu thụ. Đảm bảo an ninh lương thực tại chỗ, nhất là vùng sâu, vùng xa; phát triển ngành nghề nông thôn; nghiên cứu, chuyển đổi diện tích trồng đất lúa không hiệu quả, đất lúa một vụ sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tế cao hơn.

Thực hiện tốt Nghị quyết số 26-NQ/TW về chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020 và các chương trình của nhà nước dành cho vùng nông thôn; tập trung vào các nội dung chủ yếu: Xây dựng quy hoạch và tổ chức thực hiện để từng bước đạt chuẩn nông thôn mới; phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (giao thông, điện, y tế, văn hóa, thể thao, giáo dục, trụ sở xã, thủy lợi); đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế (khuyến nông, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hóa, phát triển làng nghề truyền thống, đào tạo nghề cho nông dân).

(5) Phát triển các lĩnh vực xã hội, xóa đói giảm nghèo

Tổ chức thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án giai đoạn 2011 - 2015 nhằm phát triển các lĩnh vực xã hội, xóa đói giảm nghèo. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách đảm bảo an sinh xã hội. Quản lý tốt các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, đảm bảo nâng cao chất lượng dạy và học, chất lượng chăm sóc sức khỏe, nâng cao thể chất và đời sống tinh thần của nhân dân.

Đẩy mạnh các hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, nhanh chóng đưa các công trình giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao vào sử dụng phục vụ hoạt động dạy và học, khám chữa bệnh. Tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho lĩnh vực xã hội theo phương châm xã hội hóa các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, xóa đói giảm nghèo.

(6) Đổi mới quản lý nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, kế hoạch, đẩy mạnh phân cấp nhiệm vụ, phân cấp quản lý ngân sách và quản lý đầu tư xây dựng

   Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch theo hướng tăng cường nghiên cứu cơ bản, đổi mới tư duy, mở rộng sự tham gia của nhân dân trong công tác quy hoạch, kế hoạch. Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng bám sát quy hoạch, kế hoạch, quy tụ các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, cơ chế chính sách để thực hiện kế hoạch, trước hết là kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư khi đến đầu tư tại tỉnh; khắc phục tình trạng nhũng nhiễu, gây khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân; cần nghiêm túc kiểm điểm, phê bình những tổ chức, cá nhân yếu kém về ý thức, trách nhiệm công việc; đồng thời khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân điển hình, gương mẫu trong thực thi nhiệm vụ.

Tiến hành đổi mới cơ chế, đào tạo, nâng cao năng lực quản lý kế hoạch, quản lý tài chính, quản lý đầu tư cho cán bộ cấp xã, cấp huyện để tăng cường phân cấp nhiệm vụ quản lý nhà nước phù hợp với thực tiễn hiện nay. Xây dựng cơ chế tăng cường sự tham gia cả người dân, của các cơ quan, tổ chức, của cán bộ trong công tác hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển, các quy hoạch, kế hoạch, trong công tác quản lý nhà nước.

(7) Tài nguyên và môi trường

Quản lý và sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạn chế thấp nhất mức độ gia tăng ô nhiễm. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về tài nguyên và môi trường. Nâng cao chất lượng công tác dự báo, cảnh báo phục vụ phòng, chống thiên tai. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về môi trường. Tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại các khu đô thị, đặc biệt là thành phố Hoà Bình.

(8) Đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội và tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp phòng ngừa đấu tranh, kiềm chế các loại tội phạm, vi phạm pháp luật. Tập trung làm tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và bổ trợ tư pháp.

Nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành. Nâng cao trách nhiệm trong việc phối hợp giữa ngành với ngành, giữa ngành với cấp trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức tốt việc theo dõi, phân tích, đánh giá tình hình, đề ra các giải pháp, chính sách cụ thể sát với tình hình, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra ở tất cả các cấp và sự giám sát của Hội đồng nhân dân; nâng cao hiệu quả phối hợp của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân nhằm thực hiện hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.

 

Thưa Hội đồng nhân dân tỉnh,

 

Đánh giá đúng những ưu điểm, thành tựu để phát huy, thấy rõ những khuyết điểm, yếu kém để khắc phục; ra sức phấn đấu đạt được những kết quả cao hơn trong năm 2011 là mong muốn và là trách nhiệm của tất cả chúng ta. Cần làm tốt công tác chính trị tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội; huy động sự nỗ lực của toàn dân vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển của tỉnh và nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi người dân.

Các ngành, các cấp phải triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ kế hoạch năm 2011 ngay sau khi được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua; tập trung vào các khâu đột phá, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian; đồng thời làm tốt công tác dự báo để có phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời; tăng cường công tác phối hợp và nỗ lực phấn đấu từ những ngày đầu, tháng đầu để đạt kết quả tốt nhất trên từng lĩnh vực, từng mặt công tác.

Khẩn trương xây dựng chương trình hành động cụ thể, thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV vào cuộc sống. Lấy kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống nhân dân làm thước đo năng lực và hiệu quả hoạt động của các cấp, các ngành.

Ủy ban nhân dân tỉnh trân trọng đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các đoàn thể, nhân dân trong tỉnh tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2011, mở đầu Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyết tâm, chung sức chung lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kế hoạch đã đề ra.

 

Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng nhân dân tỉnh, đồng chí, nhân dân và các bạn./.

 

(*) - Tiêu đề do Báo Hòa Bình đặt 



         

([1][1]) Gồm các báo cáo về: (1) Báo cáo quyết toán ngân sách địa phương năm 2009; (2) Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch sử dụng đất năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất năm 2011; (3) Báo cáo về công tác an toàn giao thông năm 2010; (4) Báo cáo về tình hình thực hiện chương trình cứng hoá giao thông nông thôn năm 2010; (5) Báo cáo về tình hình thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương năm 2010;  Báo cáo về tình hình thực hiện Đề án kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên năm 2010; (6) Báo cáo về tình hình thực hiện chương trình xây dựng Nhà văn hoá thôn, bản năm 2010; (7) Báo cáo về công tác Y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân năm 2010; (8) Báo cáo về công tác cải cách hành chính năm 2010, nhiệm vụ năm 2011; (9) Báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng năm 2010, nhiệm vụ năm 2011; (10) Báo cáo thực hiện Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2007-2010;…

   ([1][2]) Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh là 11,5%.

   ([1][3]) Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh là 12 - 14%.

   ([1][4]) Chi đầu tư phát triển bằng 198% Nghị quyết HĐND tỉnh. Chi thường xuyên bằng 127% Nghị quyết HĐND tỉnh, tăng 32% so với thực hiện năm 2009. Chi chương trình mục tiêu Quốc gia, Chương trình 135 và Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng bằng 135% Nghị quyết HĐND tỉnh. Chi thực hiện các công trình, dự án và một số nhiệm vụ khác bằng 170% Nghị quyết HĐND tỉnh.

   ([1][5]) Đã trừ đi 13 dự án bị thu hồi giấy chứng nhận đầu tư,  trong đó có 3 dự án đầu tư FDI với tổng số vốn đăng ký 9,1 triệu USD và 10 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đăng ký là 410 tỷ đồng.

     ([1][6]) Ủy ban nhân dân tỉnh chọn 11 xã làm mô hình điểm xây dựng nông thôn mới.

     ([1][7]) Tính đến 19/11/2010, tổng số tiền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đạt 430 tỷ đồng/565,4 tỷ đồng theo kế hoạch; thực hiện chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế với tổng kinh phí trên 424,4 tỷ đồng, đạt 63% kế hoạch năm. Cấp 3.553 sổ bảo hiểm y tế, nâng tổng số sổ bảo hiểm đã cấp là 77.969 sổ; cấp 593.484 thẻ bảo hiểm y tế.

      ([1][8]) Hoàn thành bệnh viện đa khoa tỉnh với quy mô trên 500 giường; xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp 5 Bệnh viện đa khoa tuyến huyện.

      ([1][9]) Nghiệm thu 26/33 đề tài, có 3 đề tại đạt xuất sắc, 11 đề tài đạt khá.

      ([1][10]) Có 100% trung tâm các huyện, thành phố có dịch vụ internet băng thông rộng; 90% số xã có cáp quang đến trung tâm xã; 95% xã có trạm thông tin BTS; toàn tỉnh có 20 điểm chuyển mạch (02 trạm HOST và 19 tổng đài vệ tinh với 495 tram thông tin di động BTS). Tổng số máy tính trong các cơ quan hành chính nhà nước là trên 5.300 máy; có 43 máy chủ; 21 sở, ban, ngành, huyện, thành phố có mạng LAN và kết nối băng thông rộng (ADSL), tỷ lệ máy tính kết nối mạng 70%.

   ([1][11]) Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định giao đất, thuê đất và thu hồi đất cho 45 tổ chức với diện tích là 75,9ha. Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường kiểm tra 12 đơn vị đang khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh.

   ([1][12]) Năm 2010, đã tổ chức 77 lớp với 6.723 học viên; tiến hành tuyển dụng 410 công chức, viên chức.

([1][13]) Năm 2010, tội phạm về hình sự xảy ra 353 vụ làm 19 người chết, bị thương 156 người, tài sản thiệt hại giá trị khoảng 8,6 tỷ đồng. Tội phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ đã phát hiện và khởi tố 02 vụ, 03 đối tượng, thiệt hại khoảng 126 triệu đồng. Tội phạm ma túy phát hiện và bắt giữ 103 vụ, 131 đối tượng, thu giữ 82 bánh heroin, 113 liều gói hêroin, 779 viên ma túy tổng hợp. Tai nạn giao thông xảy ra 86 vụ, làm chết 75 người, bị thương 80 người. Tệ nạn xã hội bắt giữ, xử lý 43 vụ, 223 đối tượng đánh bạc, thu 61,94  triệu đồng.

([1][14]) Năm 2010, sản lượng điện của Nhà máy Thủy điện ước giảm 1,9 tỷ KWh so với kế hoạch, làm hụt thu ngân sách nhà nước khoảng 130 tỷ đồng.

 

 

Các tin khác

Đồng chí Hoàng Việt Cường, Bí thư Tỉnh ủy trao Bằng khen cho các Đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy có thành tích xuất sắc trong tổ chức Đại hội điểm, Đại hội thí điểm trực tiếp bầu BTV, BT, PBT.
Ngoài việc giải quyết KN-TC và triển khai các cuộc thanh tra KT-XH, các tổ chức Thanh tra còn tham mưu cho các cấp chính quyền triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh và đại biểu các dân tộc tỉnh ta
Không có hình ảnh

Kỳ họp lần thứ 20 (chuyên đề) HĐND tỉnh khoá XIV

(HBĐT) - Ngày 28/10, tại Hội trường UBND tỉnh, HĐND tỉnh khóa XIV đã tiến hành kỳ họp lần thứ 20 (chuyên đề) để bàn và quyết định một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền HĐND tỉnh.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015

(HBĐT) - Sau 4 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao, ngày 20/10, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã bế mạc và thành công tốt đẹp. Đại hội đã thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn Nghị quyết.

Danh sách Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, nhiệm kỳ 2010 – 2015

(HBĐT) - Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 diễn ra từ ngày 17 - 20/10 tại Cung Văn Hóa tỉnh. Đại hội đã tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV gồm 53 đồng chí. Tại Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2010 - 2015, BCH Đảng bộ đã bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí; bầu Bí thư và Phó Bí thư. HBĐT xin trân trọng giới thiệu danh sách Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015

Huy động tối đa các nguồn lực xây dựng tỉnh Hòa Bình phát triển nhanh và bền vững (*)

(HBĐT) - Phát biểu của đồng chí Ngô Văn Dụ, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu lần thứ XV Đảng bộ tỉnh Hòa Bình, nhiệm kỳ 2010 – 2015.

Đại hội của đoàn kết, dân chủ, trí tuệ, trách nhiệm và đổi mới (*)

(HBĐT) - Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015 do đồng chí Hoàng Việt Cường, Bí thư Tỉnh uỷ khoá XIV, Chủ tịch HĐND tỉnh trình bày.

Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đẩy mạnh phát triển KT-XH, phấn đấu đến năm 2015, kinh tế tỉnh Hoà Bình cơ bản đạt mức phát triển trung bình của cả nước

(HBĐT) - Báo cáo chính trị (tóm tắt) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hòa Bình khóa XIV do đồng chí Bùi Văn Tỉnh, Phó Bí thư Tỉh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2010 - 2015

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục