Cho đến nay, nhiều hộ dân ở xã Xuân Phong (Cao Phong) vẫn mòn mỏi chờ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Mòn mỏi chờ giấy CNQSDĐ.
Anh Bùi Văn Giáp, một người dân ở khu TĐC Bãi Nghia than thở: Nhiều năm qua, chúng tôi không có giấy CNQSDĐ, khi giao dịch với ngân hàng hay vay mượn anh em, bạn bè không có gì để thế chấp nên chẳng ai dám cho vay. Dù rằng đã nhiều lần kiến nghị lên cấp có thẩm quyền quan tâm giải quyết, thế nhưng đến bây giờ chúng tôi vẫn mòn mỏi chờ đợi để chính thức được làm chủ mảnh đất của mình.
Trên thực tế, các hộ ở khu TĐC Bãi Nghia chỉ là trong số rất nhiều người dân đang bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc chậm cấp giấy CNQSDĐ. Ở huyện Mai Châu, theo đồng chí Khà Văn Thảnh, Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường (TN &MT) huyện, thực hiện Văn bản số 1584/STNMT-ĐĐBĐVT của Sở TN&MT về việc rà soát, báo cáo tình hình trao giấy CNQSDĐ đã cấp thuộc dự án tổng thể và Dự án 672, Phòng TN&MT huyện đã phối hợp với UBND các xã, thị trấn rà soát, tổng hợp các sai sót trong công tác đo đạc, cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp trên địa bàn huyện theo Quyết định số 672/QĐ-TTg. Qua rà soát, tính đến thời điểm cuối năm 2018, toàn huyện đã cấp (đã ký) 9.559 giấy CNQSDĐ theo Quyết định số 672/QĐ-TTg. Tuy nhiên, trong đó có 135 giấy CNQSDĐ cần huỷ bỏ không cấp hoặc đã cấp nhưng có sai sót về diện tích, vị trí...; 1.765 giấy chứng nhận (GCN) cần chỉnh lý (đã cấp nhưng có sai sót thông tin chủ sử dụng đất như số chứng minh nhân dân (CMND), địa chỉ...); 135 thửa đất cần đo đạc lại; 985.920 m2 đất cần đo đạc lại. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chủ yếu do các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định (có cả đất ở) nhưng khi thực hiện theo Dự án 672 lại cấp GCN cho cộng đồng dân cư các xóm. Các trường hợp sai sót này chỉ được phát hiện khi người sử dụng đất có nhu cầu đăng ký cấp GCN lần đầu đối với thửa đất đang sử dụng ổn định.
Chậm cấp GCN do nhiều người kê khai bằng tên con theo phong tục
Thực hiện Quyết định số 672/QĐ-TTg ngày 28/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 22/1/2007, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 127/QĐ-UBND về việc phê duyệt thiết kế kỹ thuật - dự toán thành lập bản đồ địa chính 1/10.000 và hồ sơ địa chính cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh. Quyết định này được thực hiện với mục đích thành lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1/10.000 khu vực đất lâm nghiệp, đất đồi núi chưa sử dụng và núi đá chưa có rừng cây nhằm đáp ứng kịp thời công tác đăng ký, thống kê, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy CNQSDĐ lập nghiệp. Đồng thời, có được bộ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp có độ chính xác cao, phục vụ quy hoạch, sử dụng đất và phục vụ quản lý, khai thác thông tin đất đai bằng công nghệ thông tin. Từ những yêu cầu đó, bản đồ được thành lập trên cơ sở bản đồ địa chính cơ sở theo đơn vị hành chính cấp xã với tỷ lệ 1/10.000 đã có, tiến hành điều tra, khảo sát, đo đạc, khoanh vẽ bổ sung các lô, khoảnh đất lâm nghiệp, đất đồi núi chưa sử dụng, núi đá chưa có rừng cây.
Theo đồng chí Đinh Văn Hoà, Giám đốc Sở TN&MT, trong quá trình thực hiện, Sở TN&MT đã ban hành các văn bản hướng dẫn thành lập bản đồ địa chính, giao đất, cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong đó đã hướng dẫn đầy đủ, chi tiết quy trình, phương pháp thành lập bản đồ địa chính đất lâm nghiệp và các mẫu, bảng, biểu phục vụ lập hồ sơ địa chính, cấp giấy CNQSDĐ. Đến tháng 4/2009, toàn tỉnh đã hoàn thành đo đạc, lập bản đồ địa chính đất lâm nghiệp tỷ lệ 1/10.000. Tháng 6/2011 hoàn thành giao đất, lập hồ sơ địa chính, cấp GCN. Tổng diện tích giao đất, cấp GCN là 243.153,82 ha, trong đó cấp mới 88.876,44 ha. Đã cấp giấy CNQSDĐ cho 131.762 hộ gia đình, cá nhân, trong đó, cấp mới 69.476 GCN, cấp đổi 62.286 GCN.
Tuy nhiên, hiện toàn tỉnh vẫn còn 25.023 giấy CNQSDĐ đã ký nhưng chưa trao cho người sử dụng đất, 20.057 GCN chưa ký. Đáng nói, trong 25.023 GCN đã ký nhưng chưa trao cho người sử dụng phát hiện sai sót ở 15.438 GCN. Trong đó, sai về hình thể, vị trí, diện tích 5.506 GCN; in sai số CMND, địa chỉ, tên họ đệm, ngày tháng năm sinh người sử dụng đất 8.018 GCN; in sai loại đất, sai địa giới hành chính 1.914 GCN. Theo đồng chí Đinh Văn Hoà, Giám đốc Sở TN&MT, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này do bản đồ địa chính đất lâm nghiệp tỷ lệ 1/10.000 được thành lập trên cơ sở bản đồ địa chính tỷ lệ 1/10.000 trước đây ứng dụng công nghệ bản đồ trực ảnh số, ranh giới sử dụng đất bị cây cối che khuất, địa hình phức tạp, khó khăn trong quá trình điều tra, khoanh vẽ bản đồ. Cùng với đó, công tác tuyên truyền đến người sử dụng đất chưa tốt, người dân chưa quan tâm tham gia dẫn đạc xác định ranh giới sử dụng đất. Quá trình quy chủ, kê khai đăng ký cấp GCN, người sử dụng đất không chỉ được ranh giới, vị trí thửa đất trên bản đồ, kê khai không đúng tên khai sinh. Trong đó, nhiều trường hợp kê khai bằng tên con theo phong tục... Ngoài ra, quá trình trao GCN chưa thực hiện được do có một số hộ không đến nhận mà nhờ người khác nhận thay nhưng không có giấy ủy quyền; nhiều hộ cấp đổi GCN không có GCN cũ nộp lại do đang thế chấp tại ngân hàng.
Từ thực tế trên, để giải quyết vấn đề này, Sở TN&MT đã có văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Hòa Bình đề nghị chỉ đạo các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại phối hợp với Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất các huyện, thành phố giải quyết việc đổi GCN cho người dân. Đồng thời, giao Văn phòng đăng ký đất tập trung cán bộ thực hiện chỉnh lý, bổ sung thông tin người sử dụng đất như số CMND, địa chỉ, tên họ... Theo đó, tính đến hết năm 2018 đã chỉnh lý, trao 1.686 giấy CNQSDĐ cho người dân huyện Đà Bắc; trao 1.074 giấy CNQSDĐ cho người dân huyện Tân Lạc. Hiện đang tập trung thực hiện việc chỉnh lý sai sót các GCN tại huyện Lạc Thủy... Theo kế hoạch, dự kiến trong năm nay Sở TN - MT sẽ cơ bản hoàn thành việc chỉnh lý, cấp giấy CNQSDĐ đối với số GCN có sai sót, biến động nêu trên.
Mạnh Hùng