Nhiều hòn mồ trong khu mộ cổ Đống Thếch, xã Vĩnh Đồng (Kim Bôi) còn lưu giữ nhiều tư liệu về tục “ma khô” của người Mường Hòa Bình (ảnh:T.L)
(HBĐT) - Trong các cuộc khai quật khảo cổ học vào năm 1984, khi các nhà khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật những ngôi mộ cổ trên địa bàn tỉnh có niên đại khoảng thời Lý thế kỷ XI - XII đến thời Hậu Lê thế kỷ XVII - XVIII đều phát hiện những khối than tro đóng cứng theo hình huyệt mộ. Khối than tro này rất dày và được phủ dưới đáy huyệt mộ và xung quanh quan tài.
Khối than tro này rất dày và được phủ dưới đáy huyệt mộ và xung quanh quan tài. Hiện tượng trải than tro trong lòng huyệt mộ của người Mường bắt nguồn từ tập quán linh thiêng, đó là tập quán quàn xác tại nhà. Bằng chứng xác thực nhất là dựa vào tư liệu minh văn khắc trên một số hòn mồ ở khu Đống Thếch, xã Vĩnh Đồng (Kim Bôi).
Minh văn khắc trên hòn mồ của ông Đinh Văn Kỷ cho biết, ông sinh năm Nhâm Ngọ (1582), mất ngày 13/10/1647, hưởng thọ 66 tuổi được quàn xác tại nhà để cúng tế; đến ngày 22/2/1650 thì đưa ra mộ. Như vậy, ông được quàn xác tại nhà 28 tháng.
Minh văn khắc trên hòn mồ của bà Bạch Thị Hài (vợ cả của ông Đinh Văn Kỷ), sinh năm 1585, mất năm 1660, thọ 76 tuổi, bà được quàn xác tại nhà trong thời gian 5 năm, đến năm 1665 mới đưa ra huyệt mộ.
Minh văn khắc trên hòn mồ của bà Quách Thị Tơ (vợ lẽ ông Đinh Văn Kỷ), sinh năm Bính Tuất (1586), thọ 73 tuổi, mất ngày 8/3 năm Mậu Tuất (1658), đến ngày 7/2 năm Quý Mão (1663) mới đưa ra huyệt mộ, bà cũng được quàn xác tại nhà 5 năm.
Trong ấn phẩm “Tỉnh Mường Hòa Bình” xuất bản năm 1926: 91-91 của Pierre Grossin đã mô tả tang lễ của người Mường như sau:
“Khi một người thân thích của quan lang chết, tất cả dân làng kéo đến nhà có đám để đưa xác chết vào quan tài hoặc khoét thân cây làm quan tài. Sau đó quan tài được đặt trên một tấm phản. Đồ cúng đặt ở phía đầu người chết, còn phía chân thì đặt bát hương. Trước hết thầy mo treo cái trống đồng của nhà lang ở nơi do ông ta quy định. Đó là việc chỉ riêng thầy mo làm, người khác không được làm. Thầứy mo kể lịch sử của dòng họ và chọn giờ tốt lành. Đến giờ đã định, họ hàng và dân làng quỳ dưới chân người chết và bắt đầu kêu khóc. Trống đồng và 12 phát súng hỏa mai báo hiệu giờ than khóc và lễ tang. Con cháu, họ hàng thân thuộc trong gia đình, các chức sắc Mường, từ già đến trẻ đều cắt tóc để tang trong 3 năm. Mọi việc vui chơi, giải trí đều cấm đối với người thân thuộc, ngay cả đối với chức sắc. Thi hài được để trong 3 năm, chỉ người thân thuộc vào bậc bề trên trong gia đình mới được dâng cơm cúng người chết, mỗi ngày hai lần. Trong lúc cúng cơm thì thầy mo cúng, cứ hết 100 tiếng chuông lại điểm một tiếng trống đồng. Hết tiếng trống đồng, thầy mo bưng lấy mâm cơm, chỉ có mình thầy mo được ăn cơm cúng”.
Điều đó đã minh chứng rằng: thế kỷ XVII ở vùng Mường đã từng tồn tại tập tục quàn xác tại nhà để cúng tế trong một thời gian dài (từ 3-5 năm) sau đó mới đem ra chôn tại nghĩa địa. Người Mường gọi đây là tục “ma khô”, nghĩa là, sau khi xác được đưa vào trong quan tài để làm lễ cúng cho người chết xong, người ta không đem đi chôn ngay mà để lại trong nhà. Thời gian để lại lâu hay nhanh còn tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng gia đình. Đi đôi với việc quàn xác tại nhà là vấn đề bảo quản thi hài. Theo ký ức của người Mường thì người ta bảo quản xác bằng cách dùng dây treo quan tài lên xà nhà, cách mặt sàn chừng 60-100 cm. Dưới gần sàn nơi treo quan tài, họ treo/đặt sọt đựng tro bếp để thấm hút nước của thi thể từ quan tài rỏ xuống, sau một thời gian, họ làm lễ đưa quan tài đi chôn và đem theo toàn bộ số than tro đó trải xuống huyệt mộ.
Theo quan niệm người Mường xưa, muốn quàn xác thi hài người chết tại nhà là muốn người chết được gần gũi với người sống, không muốn rời xa người chết. Bằng chứng tại các di chỉ văn hóa Hòa Bình có niên đại cách chúng ta hàng mấy nghìn năm, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy người nguyên thủy khi chết được chôn ngay ở hốc hang hay bếp lửa như mái đá Đú Sáng, xã Đú Sáng (Kim Bôi); hang Láng, xã Chiềng Châu; hang Khoài, xã Xăm Khòe (Mai Châu); hang Đồng Thớt, xã Thanh Nông (Lạc Thủy)…
Như vậy, dựa vào minh văn khắc trên hòn mồ, chúng ta còn biết thêm được nhiều điều về tang lễ của tầng lớp quan lang, quý tộc Mường xưa kia, thường được tổ chức rất linh đình với những nghi lễ phức tạp, rườm rà, tốn kém tiền của, phô trương. Từ sau năm 1945 trở lại đây, tập tục “ma khô” của người Mường đã mất hẳn không còn tái diễn lại trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
Đoàn Thị Nữ
(Bảo tàng tỉnh)
(HBĐT) - Ngày 21/6, Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh đã tổ chức lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập (23/6/1993 – 23/6/2013). Tới dự có các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên đã và đang công tác tại Hội.
(HBĐT) - Để đảm bảo thâm canh lúa nước ở vùng cao khắc nghiệt, từ xưa đồng bào Mông đã chú ý làm thủy lợi, tận dụng sức mạnh của thiên nhiên để duy trì sự sống của mình. Cùng với thời gian, ngày nay nếp sinh hoạt, ăn uống của người Mông vùng cao cũng có nhiều thay đổi, tuy rằng các sản vật trong đời sống hàng ngày đều lấy từ thiên nhiên hoặc do chính bàn tay lao động làm ra nhưng cách thức chế biến và ăn uống đã khác, mang tính cầu kỳ hơn.
(HBĐT) - Trong 2 ngày 20 – 21/6, huyện Tân Lạc tổ chức hội diễn nghệ thuật quần chúng và thi kịch thông tin năm 2013. Dự hội diễn có 22 đơn vị đến từ 17 xã, thị trấn và 5 cơ quan, ban, ngành huyện, tổng số diễn viên đến với hội diễn là trên 300 người.
(HBĐT) - Những năm qua, công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể luôn được huyện Kim Bôi quan tâm, thực hiện, góp phần thực hiện thành công nghị quyết T.Ư 5 (khoá VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc” ở địa phương.
(HBĐT) - Đối với các em nhỏ, nghỉ hè là nghỉ ngơi, vui chơi sau một năm học vất vả, thời gian này, các em sẽ được tham gia các trò chơi, lớp học năng khiếu TDTT, hát múa, bơi lội…
(HBĐT) - Toàn tỉnh hiện có 40 di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia, 24 di tích cấp tỉnh, trên 50 bản làng có giá trị cao về du lịch cộng đồng.