Ngày 23/1/2022, trong buổi làm việc với Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, cần xử lý nghiêm các vụ bạo hành trẻ em.
Bị can
Nguyễn Võ Quỳnh Trang trong vụ bé gái 8 tuổi bị "dì ghẻ” bạo hành dẫn đến
tử vong.
Ý kiến chỉ đạo của vị nguyên thủ quốc gia xuất phát từ thực tế là
các vụ xâm hại tính mạng, sức khỏe đối với trẻ em ở nhiều địa phương trong thời
gian gần đây đã gây nên sự bức xúc lớn trong dư luận. Đặc biệt nghiêm trọng là
hai vụ xảy ra trong vòng chưa đầy một tháng – vụ bé gái 8 tuổi bị "mẹ
kế" đánh tử vong (ngày 22/12/2021 tại Thành phố Hồ Chí Minh) và vụ bé gái
3 tuổi bị "bố dượng" bắn đinh vào đầu, đang hôn mê sâu, tiên lượng
xấu (ngày 17/1/2022 tại Hà Nội).
Làm thế nào để nâng cao tính hiệu quả của Luật Trẻ em và hoạt động của các cơ
quan, tổ chức bảo vệ trẻ thơ đang là mối quan tâm lớn của toàn xã hội hiện nay.
Pháp luật đầy đủ, nhiều cơ quan bảo vệ trẻ em
Hiến pháp nước Cộng hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu rõ: "Trẻ em
được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia
vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc,
lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em"
(khoản 1, Điều 37).
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990.
Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 20-CT/TW ngày 5/11/2012 về "Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong
tình hình mới".
Hướng tới mục tiêu bảo vệ và chăm sóc trẻ em tốt hơn, Nhà nước Việt Nam tiếp
tục hoàn thiện hệ thống luật pháp - chính sách. Ngày 5/4/2016, Quốc hội thông
qua Luật Trẻ em tại kỳ họp thứ 11, khóa XIII và Luật có hiệu lực từ ngày
1/6/2017. Luật Trẻ em gồm 7 chương với 106 điều (tăng 2 chương và 46 điều so
với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004). Theo Điều 1 của Luật,
trẻ em là người dưới 16 tuổi, còn theo Điều 4, bảo vệ trẻ em là "việc thực
hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh;
phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt".
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, chỉ thị, quyết định
về chính sách, chương trình đối với trẻ em và chính sách trợ giúp xã hội, trong
đó có đối tượng là trẻ em.
Luật Trẻ em năm 2016 có 25 điều quy định về quyền của trẻ em, trong đó có Quyền
sống (Điều 12); Quyền được chăm sóc sức khỏe (Điều 14); Quyền được chăm sóc,
nuôi dưỡng (Điều 15); Quyền được sống chung với cha, mẹ (Điều 22); Quyền được
đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ (Điều 23); Quyền được bảo vệ để không
bị xâm hại tình dục (Điều 25); Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao
động (Điều 26); Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc (Điều
27); Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt
(Điều 28); Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính (Điều
30); Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung
đột vũ trang (Điều 31); Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 32)…
Để các quyền của trẻ em được bảo đảm, Luật Trẻ em năm 2016 và Quyết định số
856/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (năm 2017) quy định, có 18 cơ quan, tổ chức,
nhóm tổ chức đảm nhiệm chức năng bảo vệ quyền trẻ em ở các cấp độ khác nhau.
Các cơ quan, tổ chức này gồm: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; Chính phủ;
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
Bộ Tư pháp; Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Công an; Ủy ban nhân dân các cấp; Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; các tổ chức xã hội; tổ
chức kinh tế; tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em; Quỹ Bảo trợ trẻ em; Ủy ban
Quốc gia về trẻ em.
Theo chức năng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quyết định mục
tiêu, chỉ tiêu, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
theo thẩm quyền để thực hiện quyền trẻ em; giám sát việc thực hiện quyền trẻ
em; phân bổ ngân sách hằng năm để thực hiện quyền trẻ em.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trẻ em; ban hành theo thẩm quyền và tổ
chức thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình về trẻ em; bảo đảm cơ chế và
biện pháp phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, địa
phương trong việc thực hiện quyền trẻ em, giải quyết các vấn đề về trẻ
em.
Tòa án nhân dân các cấp áp dụng nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền
và bổn phận của trẻ em, yêu cầu và biện pháp tư pháp cho trẻ em để tiến hành
xét xử hành vi vi phạm quyền trẻ em, trẻ em vi phạm pháp luật, ra quyết định tư
pháp đối với trẻ em hoặc có liên quan đến trẻ em.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp áp dụng nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và
bổn phận của trẻ em, yêu cầu và biện pháp tư pháp cho trẻ em để thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với trẻ em hoặc có liên quan đến trẻ
em.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội điều phối việc thực hiện quyền trẻ em; bảo
đảm thực hiện quyền trẻ em được Chính phủ giao hoặc ủy quyền.
Bộ Tư pháp bảo đảm việc bảo vệ trẻ em trong quá trình xử lý vi phạm hành chính.
Bộ Y tế bảo đảm trẻ em được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất
lượng và công bằng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp
luật.
Bộ Giáo dục và Đào tạo bảo đảm việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em
trong nhà trường; xây dựng chương trình, nội dung giáo dục phù hợp với từng độ
tuổi trẻ em.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch bảo đảm trẻ em được vui chơi, giải trí, hoạt
động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch.
Bộ Thông tin và Truyền thông bảo đảm trẻ em được tiếp cận thông tin trên các
kênh thông tin, truyền thông; được bảo vệ hình ảnh, thông tin về đời sống riêng
tư.
Bộ Công an hướng dẫn và tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn
hành vi bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán trẻ em và tội phạm liên
quan đến trẻ em.
Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về trẻ em theo thẩm quyền;
tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, kế hoạch, chương trình mục tiêu, chỉ
tiêu về trẻ em; chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyền trẻ em.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát, phản
biện, tham vấn, kiến nghị đối với cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, thực
hiện đường lối, chính sách, pháp luật, phân bổ nguồn lực đáp ứng quyền của trẻ
em theo quy định của pháp luật.
Ủy ban Quốc gia về trẻ em giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ
đạo, phối hợp, đôn đốc, điều phối giữa các bộ, ngành và địa phương để giải
quyết các vấn đề về trẻ em, thực hiện quyền trẻ em; đề xuất phương hướng, giải
pháp để thực hiện các vấn đề liên quan đến trẻ em và thúc đẩy thực hiện Công
ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Cần cơ quan chuyên trách đủ mạnh và nâng cao hiệu lực pháp luật
Ở nước ta, nhiều cơ quan, tổ chức có chức năng bảo vệ các quyền của trẻ em,
song các đơn vị này cũng đảm trách nhiều nhiệm vụ quan trọng khác. Một số cơ
quan, đơn vị tham gia theo kiểu "đánh trống ghi tên" hoặc thiên về bề
nổi, mang tính "phong trào", "chiến dịch".
Việc
tuyên truyền về quyền trẻ em được tổ chức nhiều đợt, có quy mô lớn ở các
địa phương nhưng kết quả không cao, nhận thức của người dân ít chuyển biến, nên
vấn đề xâm hại trẻ em sa vào tình trạng "chống mạnh mà không giảm".
Khi xảy ra một vụ xâm hại trẻ em thì người nắm được thông tin lúng
túng, không biết cần liên hệ với cơ quan, tổ chức nào để có kết quả nhanh nhất,
bảo đảm nhất.
Mặc dù có nhiều đầu mối tiếp nhận thông tin song chỉ rất ít cơ
quan có thực quyền để xử lý vụ việc trẻ bị xâm hại, trong đó có đơn vị bảo vệ
trẻ em thuộc ngành lao động - thương binh và xã hội và ngành công an. Sau đó,
ngành kiểm sát và tòa án vào cuộc khi xảy ra vụ việc nghiêm trọng và phải xử lý
hình sự.
Phần lớn các cơ quan khác không thể xử lý các vụ việc xâm hại trẻ em mà chuyển
thông tin lên cơ quan có thực quyền. Điều này gây nên sự chậm trễ, thiếu hiệu
quả, tính nghiêm minh của pháp luật bị giảm sút.
Theo luật sư Nguyễn Văn Đức (Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh), không phải ở
Việt Nam pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu nghiêm minh, mà do yếu tố con người
nên nhiều khi việc áp dụng pháp luật chưa sát với thực tế, cách xử lý không
triệt để, để lọt người, lọt tội. Thực tế gần đây cho thấy, có những vụ xâm hại
trẻ em được xử lý hình sự nhưng chưa đủ tác dụng răn đe do hình phạt không
tương xứng với hành vi.
Trong khi đó, để thực sự có hiệu quả trong việc phát hiện, ngăn chặn và bảo vệ
trẻ em khỏi nguy cơ bị bạo hành, xâm hại thì cần giảm số lượng các đầu mối. Ít
mà tinh, mang tính chuyên nghiệp là đòi hỏi của thực tiễn.Đểthực
thi chức năng bảo vệ trẻ em một cách thiết thực thì cần có một cơ quan chuyên
trách đủ mạnh về quyền hạn và có đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản.
Theo Vụ
Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), tại Việt Nam có nhiều văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ trẻ em, nhưng thiếu sự thống nhất trong giải thích một
số định nghĩa, thuật ngữ và thiếu các quy định cụ thể.
Việc triển khai thực hiện Luật Trẻ em còn phân tán, nhiều cơ quan, tổ chức
cùngchịu trách nhiệm, nhưng luật chưa quy định cơ chế phối hợp nên công
tác thực hiện kém hiệu quả.
Đội ngũ cộng tác viên cơ sở trong việc bảo vệ trẻ em thường là kiêm nhiệm,
thiếu chuyên môn nghiệp vụ về công tác xã hội nên nhiều thông tin về trẻ em
không được bao quát, nhiều vụ việc không được phát hiện sớm để ngăn chặn; chế
độ chính sách không có hoặc rất ít.
Bà Rana Flowers, Trưởng đại diện Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt
Nam, cũng có ý kiến tương tự: "Cần có một hệ thống bảo vệ mạnh mẽ hơn cho
phụ nữ và trẻ em, một hệ thống với các nhân viên chuyên trách. Không phải các
tình nguyện viên hay các cán bộ phúc lợi không được đào tạo, mà cần có các nhân
viên chuyên nghiệp có trình độ - những người có thể xác định, can thiệp, đáp
ứng nhu cầu và bảo vệ trẻ em và phụ nữ".
Tiến sỹ Lưu Hồng Minh, nguyên Trưởng khoa Khoa Xã hội học và Phát triển (Học
viện Báo chí và Tuyên truyền), cho biết: "Chúng ta đã từng đặt mục tiêu
đào tạo bài bản 40.000 nhân viên công tác xã hội, nhưng chưa thực hiện được do
chủ trương giảm biên chế trong cơ quan nhà nước. Vì vậy, các cơ quan quản lý
cần đưa ra những biện pháp, chính sách để hệ thống nhân viên công tác xã hội
làm việc trong nhà nước hoặc các tổ chức ngoài nhà nước như các tổ chức phi
chính phủ, các chương trình theo tháng, năm… được phát huy vai trò".