Hơn nửa thế kỷ hiện diện qua bao thăng trầm, rồi trụ vững trên đồng đất Mường Thàng với thương hiệu Cam Cao Phong nức tiếng gần xa. Những năm gần đây, cam Cao Phong định hình lại hướng đi, tổ chức lại sản xuất như một lẽ tất yếu, nhất là sau giai đoạn phát triển "nóng” với nhiều bất cập.






Vườn cam sai trĩu quả vào vụ thu hoạch của Hợp tác xã 3T Farm, thị trấn Cao Phong (Cao Phong). 

Cây cam đến, ở lại và toả sáng như một sự lựa chọn của "số phận". Bởi trong giai đoạn các nông trường khác trong tỉnh phải chặt bỏ cây cam vì sự biến động của thị trường, thì loài cây này vẫn trụ lại và phát triển mạnh mẽ ở mảnh đất Mường Thàng.

Vùng cam còn lại sau giai đoạn "hoàng kim”

Mường Thàng là 1 trong 4 vùng Mường cổ của tỉnh, nay là huyện Cao Phong. Mường Thàng nằm ở độ cao trên 250m so với mực nước biển, xung quanh được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi. Điều này đã tạo nên một tiểu khí hậu riêng, phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cây cam, quýt, mía và một số loại cây trồng khác. Thế nên dễ hiểu khi nơi đây đã trở thành thủ phủ của một số đặc sản ở xứ Mường, như cam Cao Phong, mía tím Cao Phong. Trong đó, cây cam đã thực sự giúp Mường Thàng lột xác, trở thành vùng Mường giàu có bậc nhất. Vậy, cây cam đã bén duyên với đất Mường Thàng từ bao giờ? Quá trình hình thành, phát triển của vùng cam và những thành công mà cây trồng này mang lại cho người dân nơi đây ra sao?

Qua trao đổi với đồng chí Nguyễn Hồng Yến, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật, ông Hà Ngọc Tuyền, Giám đốc Công ty TNHH MTV Cao Phong Hòa Bình (thị trấn Cao Phong, huyện Cao Phong) được biết: Những năm 60 của thế kỷ trước, sau khi thành lập Bộ Nông trường, ở Hòa Bình hình thành 4 nông trường cam. Trong đó, vùng cam của Nông trường Cao Phong (nay là Công ty TNHH MTV Cao Phong Hòa Bình) có quy mô đứng thứ 3 trong 4 nông trường. Trong chu kỳ đầu tiên của cây cam, diện tích cam của Nông trường Cao Phong lên tới 900 ha. Những năm 80 là thời kỳ hoàng kim của cam Hòa Bình, khi quả cam được xuất khẩu mạnh sang thị trường Liên Xô và Đông Âu. Tuy nhiên, năm 1991, khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã thì các đơn hàng xuất sang thị trường này cũng bị "vỡ”.  

Theo đồng chí Nguyễn Hồng Yến, do những khó khăn về thị trường tiêu thụ nên cây cam dần bị chặt bỏ tại các nông trường để chuyển sang trồng chè. Đến năm 1997, cả tỉnh chỉ còn 219 ha cam. Diện tích cam còn lại chủ yếu nằm ở Nông trường Cao Phong. Lúc này cây cam phát triển trong bối cảnh nhiều khó khăn, cam Cao Phong phải chở vào Vinh (Nghệ An) để tiêu thụ trong thời gian khá dài. Đến đầu những năm 2000, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động phong trào "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã trở thành động lực đầu tiên để cây cam Cao Phong phục hồi và phát triển nhằm "đánh bại” cam nhập từ Trung Quốc. Cũng từ thời điểm này, nhiều giống cam mới được đưa vào sản xuất nên sản phẩm cam Cao Phong khá đa dạng, thời gian cho thu hoạch kéo dài. Năm 2014, cam Cao Phong được cấp Chỉ dẫn địa lý đã mở ra bước ngoặt để phát triển với những hiệu quả kinh tế vượt ngoài mong đợi.  

Cây cam là lời giải cho bài toán "trồng cây gì”

Đó là khẳng định của đa số người trồng cam ở đất Cao Phong. Ông Hà Ngọc Tuyền, Giám đốc Công ty TNHH MTV Cao Phong Hòa Bình cho biết: Nông trường Cao Phong được thành lập nhằm mục đích khai hoang, phát triển kinh tế. Những năm đầu, nông trường trồng nhiều loại cây khác nhau, trong đó có cây cam. Phải đến cuối những năm 60, đầu những năm 70, nông trường mới tập trung vào trồng cây cam, xác định đây là cây trồng chủ đạo. Năm 1968, nông trường có khoảng trên 100 ha cam, thị trường tiêu thụ chính là Liên Xô cũ, năm cao nhất (1976) đạt 3 nghìn tấn xuất khẩu. Từ đó đến nay, cây cam của nông trường đã trải qua nhiều thăng trầm. Thế nhưng phải khẳng định, với Cao Phong đây vẫn là cây trồng chủ lực, hiện chưa có cây nào thay thế được cây cam. 

Bắc Phong là một trong những xã hiện vẫn phát triển mạnh cây cam. Trong đó, tại xóm Dệ có hàng chục hộ dân đã gắn bó và "ăn nên làm ra” với cây trồng này. Khoảng 15 năm trở về trước, đời sống kinh tế của người dân xóm Dệ gặp nhiều khó khăn. Mặc dù có đồng đất bằng phẳng, nhưng bao năm bà con loay hoay không biết lựa chọn cây gì để khai thác hiệu quả tiềm năng về đất đai. Từ khi chuyển sang trồng cam, nhiều hộ đã thành công và có bước bứt phá với thu nhập ổn định hàng trăm triệu đồng mỗi năm. 

Ông Ngô Thanh Huấn, Trưởng xóm Dệ chia sẻ: Xóm Dệ vốn rất khó khăn. Trước khi có những vườn cam xanh tốt như hiện nay thì đa số là vườn tạp, thậm chí là đồi hoang. Nhưng từ khi trồng cam, đời sống bà con thay đổi, bộ mặt làng xóm khang trang hơn rất nhiều. Mặc dù có thời điểm do sản xuất ồ ạt theo phong trào nên có những hộ thất bại, nhưng vẫn có nhiều hộ thành công và tiếp tục gắn bó với cây cam. Đây không chỉ là cây xoá nghèo mà còn giúp bà con làm giàu. 

Cũng tại xã Bắc Phong, hộ ông Ứng Văn Quán, xóm Hải Phong chuyển sang trồng cam từ năm 2013. Đến nay vườn cam đã cho thu hoạch đều đặn hơn 6 năm. Ông Quán cũng cho rằng, suốt hơn chục năm qua, không có cây gì hơn được cây cam về hiệu quả kinh tế mang lại. "Trước đây gia đình chỉ trồng ngô, sắn, vài loại cây tạp khác nên hiệu quả kinh tế không cao. Từ khi trồng cam, chỉ chuyên vào cây cam thôi mới có thu nhập ổn định. Cây cam vẫn là cây trồng quan trọng nhất với chúng tôi”, ông Quán khẳng định. 

Trưởng phòng NN&PTNT huyện Cao Phong Bùi Văn Dán cũng khẳng định: Cây cam là cây trồng chủ lực của người dân huyện Cao Phong. Hiện nay, cây cam trải qua chu kỳ tái canh lớn nhất từ trước đến nay. Đây là giai đoạn bà con cải tạo đất để chuẩn bị cho chu kỳ tái canh tiếp theo. Tỉnh, huyện đang đồng hành, hỗ trợ người dân để phát triển cây cam đúng quy hoạch, bài bản hơn.

(Còn nữa)

Thúy Hằng - Viết Đào


Các tin khác


Hơn 40 năm sau cuộc di dân lịch sử - giải pháp nào xoá ''vùng lõm" hồ Hoà Bình: Bài 2 - Cuộc sống người dân hết sức khó khăn sau di dân

Khi hoàn thành cuộc ngăn sông lịch sử lớn nhất thế kỷ 20, Thủy điện Hòa Bình là bản hùng ca về về ý chí, tinh thần, nghị lực Việt Nam; là những ca từ xúc động trên công trường rộn tiến ca; là khí thế thi công ngày đêm rầm rập vượt tiến độ, đưa công trình vào vận hành khai thác tốt các chức năng điều tiết nước, chống lũ, chống hạn, đảm bảo giao thông đường thủy, phát điện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Song cũng là lúc người dân vùng hồ lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, co cụm trên núi đồi, hình thành các chòm xóm, hầu hết cách biệt và cô lập…

Hơn 40 năm sau cuộc di dân lịch sử - giải pháp nào xoá “vùng lõm” hồ Hoà Bình: Bài 1 - Cuộc chuyển dân lịch sử phục vụ công trình Thủy điện Hòa Bình

Công trình Thủy điện Hòa Bình là một kỳ tích được tạo dựng bằng ý chí, quyết tâm, mồ hôi, công sức của cán bộ, Nhân dân cả nước trong hành trình trị thủy, chinh phục dòng sông Đà hung dữ, chuyển hóa sức nước thành dòng năng lượng điện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - điện đại hóa đất nước. Đến nay, sau hơn 40 năm thực hiện cuộc di dân vùng hồ thủy điện Hòa Bình, nhiều nơi đã tiến xa nhưng vẫn còn những vùng trũng, khoảng tối trong cuộc sống người dân vùng hồ từng "hy sinh" rất lớn phục vụ công trình thế kỷ.

Thực hiện lời hứa với dân, quyết sách các vấn đề tạo động lực phát triển - thực tiễn từ tỉnh Hòa Bình: Bài 5 - Quyết sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội

Để nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp phụ thuộc vào hoạt động của mỗi đại biểu dân cử. Mỗi đại biểu trên địa bàn tỉnh đã và đang khắc phục những khó khăn, hạn chế, phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của tỉnh Hoà Bình.

Thực hiện lời hứa với dân, quyết sách các vấn đề tạo động lực phát triển - thực tiễn từ tỉnh Hòa Bình: Bài 4 - Thực hiện lời hứa với cử tri và Nhân dân

Khi được cử tri tin tưởng bầu chọn, các đại biểu đều quyết tâm thực hiện lời hứa để xứng đáng với sự kỳ vọng của Đảng, sự tin tưởng của Nhân dân. Thực hiện lời hứa với Nhân dân là nhiệm vụ đau đáu đối với mỗi người đại biểu dân cử tỉnh Hoà Bình.

Thực hiện lời hứa với dân, quyết sách các vấn đề tạo động lực phát triển - thực tiễn từ tỉnh Hòa Bình: Bài 3 - Đưa đến nghị trường đầy ắp tiếng dân

 Với quan điểm "lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân”, "vấn đề được lựa chọn chất vấn phải đúng và trúng, vừa có tính thời sự, gắn với đề cao trách nhiệm giải trình của cơ quan chức năng”, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và HĐND tỉnh Hoà Bình đã đưa lên nghị trường đầy ắp tiếng dân.

Thực hiện lời hứa với dân, quyết sách các vấn đề tạo động lực phát triển - thực tiễn từ tỉnh Hòa Bình: Bài 2 - Đi sâu vào vấn đề nóng từ thực tiễn

Những năm qua, các hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và HĐND các cấp tỉnh Hòa Bình đã gắn với vấn đề nóng, bức xúc được cử tri và Nhân dân trong tỉnh quan tâm. Các vấn đề đã được xem xét, thực hiện nghiêm túc, đảm bảo theo quy định. Đại biểu dân cử quyết tâm theo đuổi, bám sát đến cùng đối với những kiến nghị chính đáng của cử tri chưa được giải quyết dứt điểm.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục