Việc dạy học ở Trường Sa không chỉ là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong công tác giáo dục và đào tạo đối với vùng biên giới biển đảo, mà còn khẳng định, Bộ đội Hải quân nhân dân Việt Nam đóng quân ở đâu, ở đó có sự đồng hành, sát cánh của nhân dân; quân, dân cùng nhau bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trong mọi tình huống.


Học sinh Trường Sa với khách đất liền. Ảnh: Mai Thắng
Cô giáo đầu tiên ở Trường Sa
Quần đảo Trường Sa có 21 đảo, điểm đảo, 33 điểm đóng quân thuộc địa giới quản lý hành chính của tỉnh Khánh Hòa, nhưng cũng là phên dậu phòng thủ đặc biệt bảo vệ Tổ quốc từ hướng biển. Bắt đầu thập niên đầu của thế kỷ XXI, thực hiện chủ trương dạy và học ở các đảo xa bờ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quân chủng Hải quân đã tổ chức xây hệ thống trường học tại ba đảo: Trường Sa lớn, Sinh Tồn và Song Tử Tây. Đồng hành với đó là đưa giáo viên từ đất liền ra đảo thực hiện sự nghiệp trồng người.

Từ xã Cam Lâm, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, cô giáo Bùi Thị Nhung đã viết đơn tình nguyện ra Trường Sa dạy học với tinh thần "tất cả vì học sinh Trường Sa thân yêu”. Biết vợ làm đơn tình nguyện ra Trường Sa, chồng và bố mẹ đẻ của cô Nhung lúc đầu không ủng hộ. Nhưng được cô giải thích, thuyết phục "đi Trường Sa để cống hiến và giúp lũ trẻ biết chữ”, gia đình đã đồng ý. Ngày cô Nhung bế con nhỏ bước chân xuống tàu đi Trường Sa, bố mẹ cô nghẹn ngào trên cầu cảng. Người cha già mặt buồn buồn mong con gái đi gặp nhiều may mắn, còn mẹ cô mắt đỏ hoe đưa tay vẫy khi tàu rời bến. Cuộc chia xa không hẹn ngày trở về xúc động. Chen lẫn niềm vui, nỗi buồn là những giọt nước mắt.

Sau gần 3 ngày đêm hải trình không nghỉ, tàu 957 của Vùng 4 Hải quân đưa cô Nhung đến đảo Trường Sa lớn. Đêm đầu tiên giữa "quần đảo bão tố”, cô không hề chợp mắt, phần vì lạ đảo, lạ nhà, phần vì nhớ đất liền canh cánh trong lòng.

Cô Nhung bắt đầu "gieo chữ” cho học sinh Trường Sa trong điều kiện dụng cụ học tập chưa đầy đủ. Số học sinh chỉ chưa được 10 em ở các độ tuổi từ lớp 1 đến lớp 5. Do học sinh ít, lại không đủ giáo viên, mình cô Nhung đảm nhiệm dạy học 5 lớp (từ lớp 1 đến lớp 5). Để tiện quản lý, các em học sinh được học trong một phòng. Các bàn học được kê hình đa giác. 5 chiếc bảng treo ở 5 vị trí khác nhau. Học sinh học lớp mấy, thì ngồi đối diện với bảng ở vị trí đó. Cô Nhung đi vòng tròn dạy cho từng lớp.

Trong khi học sinh lớp 5 làm bài tập, thì học sinh lớp 3 tập viết, lớp 2 tô màu. Ra chơi cùng chung một giờ, cô trò ngồi quây quần bên nhau. "Cái khó nhất dạy học ở Trường Sa là học sinh ít, lại dạy chung một phòng học. Một mình tôi dạy 5 lớp trong một không gian hẹp. Điều kiện cơ sở giáo dục còn nhiều khó khăn. Ngoài học chữ theo chương trình chung của Bộ, các em được học "tinh thần thép”. Tức là học tình yêu biển, đảo của Tổ quốc. Đa phần các em có ước mơ lớn lên làm chú bộ đội và ở lại đảo. Những buổi được các chú bộ đội đến kể chuyện, các em luôn hào hứng. Với tôi, dạy học ở Trường Sa tuy vất vả, nhưng rất tự hào, vì đã góp phần nhỏ bé gieo chữ cho các em nơi đầu sóng ngọn gió. Những ngày tháng ấy không bao giờ quên”, cô Nhung chia sẻ.

Gửi khát vọng trong từng con chữ

Bắt đầu từ 2012, thay vì đưa giáo viên nữ từ đất liền ra Trường Sa dạy học thì tỉnh Khánh Hòa quyết định thay bằng giáo viên nam. Đây là điều kiện để các thầy giáo trẻ có cơ hội cống hiến, đồng thời thuận lợi trong công tác chuyển đổi giáo viên dạy học ở vùng hải đảo xa xôi. Được ra đảo Trường Sa lớn dạy học, thầy giáo Bành Hữu Tình gửi trọn tình yêu, niềm đam mê và tâm huyết cho công việc "gieo chữ”. Cũng như cô giáo Nhung, thầy Tình dạy 5 lớp trong một phòng học. "Lớp học xoay vòng” của thầy gồm các em học sinh là con của ngư dân đang sinh sống tại đảo và cả con của bộ đội Trường Sa. Trong giờ học, thầy Tình say mê giảng bài, tận tình chỉ bảo; ngoài giờ học, thầy Tình là người bạn thân thiết của các em. Bởi vậy có em "lém lỉnh” gọi thầy là "anh Tình”.

Thầy Tình chia sẻ: "Điều tôi tự hào nhất là được dạy học ở tuyến đầu Tổ quốc. Tuy có nhiều vất vả nhưng mỗi ngày được đứng trên bục giảng, cảm giác khó khăn trở ngại tan biến hết. Tôi đã đứng trên bục giảng 16 năm. Ra Trường Sa dạy học cũng là thỏa mãn khát vọng cống hiến cho Trường Sa”.

Cùng chung khát vọng cống hiến sức lực cho sự nghiệp trồng người ngoài "quần đảo bão tố”, thầy giáo Nguyễn Hữu Phú ở Trường Song Tử Tây luôn bận rộn với giáo án bài giảng. Vốn là người nhiều tài lẻ, ngoài giờ lên lớp, thầy Phú tổ chức cho các em học sinh hoạt động ngoại khóa. Nam tập đá bóng trên cát, nữ chơ trò nhảy dây. Ngày cuối tuần, thầy cùng các em học sinh tham gia nhặt rác thải nhựa từ biển dạt vào triền đảo, bảo vệ môi trường. "Càng gắn bó với đảo, với các em học sinh ở đảo, tôi càng thấy mình yêu nghề hơn. Tuy điều kiện dạy và học ở đảo còn khó khăn, không như đất liền, nhưng luôn bảo đảm cho các em học đủ chương trình, nâng cao chất lượng học tập và rèn luyện thể lực toàn diện. Trong khi đất liền dạy học online, thì Trường Sa vẫn học tập bình thường. Thầy trò chúng tôi luôn tuân thủ biện pháp "5K”, mặc dù ở đảo không có dịch”, thầy Phú chia sẻ.


Được coi là "chân trời Tổ quốc”, đảo Sinh Tồn xa hơn so với các đảo khác trong quần đảo Trường Sa. Song, lớp học của "cặp” thầy giáo trẻ thế hệ 9X Phạm Xuân Diệu và Nguyễn Công Qua luôn đầy ắp niềm vui xen lẫn tiếng cười. Cũng là "típ thanh niên” năng động "ba trong một”, ngoài giờ dạy chữ thầy Diệu và thầy Qua thường xuyên tổ chức cho các em học sinh vui chơi giải trí. Lúc thì tổ chức vệ sinh, nhặt rác thải biển; khi thì giúp các chú bộ đội tăng gia trồng rau xanh quanh đảo. Thầy Diệu chia sẻ: "Dạy học ở Trường Sa là khát vọng lớn của em. Cái khác biệt nhất về tâm trạng dạy học ở đây là luôn muốn cống hiến sức lực, trí tuệ cho Tổ quốc”.

Còn thầy Nguyễn Công Qua thì cho rằng: "Em đã thỏa mãn khát vọng của mình được gieo chữ nơi tuyến đầu Tổ quốc. Đây là vinh dự lớn đối với em. Nếu được phép, em nguyện dạy học cả đời ở đảo”.

Trường Sa bây giờ đang là mùa sóng to gió lớn. Mặc cho giông tố cuồng phong, mặc cho nắng nóng và thời tiết khắc nghiệt, ba lớp học ở ba đảo Trường Sa lớn, Song Tử Tây, Sinh Tồn vẫn hoạt động bình thường. Trong ba lớp học đặc biệt ấy, bốn thầy: Bành Hữu Tình, Nguyễn Công Qua, Nguyễn Hữu Phú, Phạm Xuân Diệu vẫn miệt mài gieo chữ cho các em học sinh. Các thầy đang thực hiện khát vọng trồng người ngoài "quần đảo bão tố”.

"Khát vọng lớn nhất của tôi là dạy học ở Trường Sa. Gieo chữ ở Trường Sa gian khó, nhọc nhằn, nhưng rất tự hào kiêu hãnh. Cống hiến sức trẻ cho chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, là thiêng liêng và vinh quang. Không chỉ riêng tôi, mà các thày giáo Trường Sa đều có khát vọng và lý tưởng cống hiến như vậy”, cô giáo Bùi Thị Nhung trải lòng.

                                 Theo QĐND

Các tin khác


Dũng cảm, sáng tạo đưa tàu cập bến

Từ năm 1962 đến 1968, ông Phan Nhạn đã 15 lần cùng đồng chí, đồng đội thực hiện hải trình trên Đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại vượt biển, trên các con tàu không số để đưa hàng hóa chi viện cho chiến trường miền Nam.

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tây Nam Tổ quốc

"Đoàn tàu không số”, với đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc đã đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam như một "huyền thoại”.

Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm Thiếu tướng Lê Quang Đạo giữ chức Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về nhân sự Cảnh sát biển Việt Nam.

Bến Vàm Lũng - điểm cuối đường Hồ Chí Minh trên biển

(HBĐT) - Khu di tích lịch sử Bến Vàm Lũng cách TP Cà Mau gần 100 km theo hướng quốc lộ 1 về phía Nam, thuộc thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển (Cà Mau). Nơi đây ghi nhận những chiến công thầm lặng của các chiến sỹ trên "Ðoàn tàu không số” đã vượt hàng nghìn km đường biển để chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Bến B22-mắt xích quan trọng của Đường Hồ Chí Minh trên biển

Di tích quốc gia Bến tiếp nhận vũ khí Trà Vinh-Bến B22 là niềm tự hào của quân dân Trà Vinh vì đã trở thành mắt xích quan trọng của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Bia tưởng niệm vươn cao trong nắng mới, là lời nhắc nhở cho thế hệ trẻ về truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Vang mãi khúc tráng ca trên bến tàu không số Vũng Rô

(HBĐT) - Cách đây tròn 60 năm, thật không dễ dàng gì khi những con tàu không số vượt qua nghìn trùng sóng vỗ cùng sự vây hãm của quân địch để vận chuyển vũ khí từ miền Bắc cập bến Vũng Rô (Phú Yên). Từ đây, hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược kịp thời chi viện cho chiến trường khu V và Tây Nguyên, góp phần quan trọng trong cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang Quân khu 5, thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước... Ngày nay, những câu chuyện về tàu không số và bến Vũng Rô vẫn còn vang mãi khúc tráng ca trong lòng Nhân dân.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục