Bài 1: Sự lãnh đạo của Đảng là yêu cầu tất yếu
Trải qua chặng đường 98 năm hình thành và phát triển, báo chí cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng làm tốt vai trò phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng.
Phóng viên Báo Nhân Dân tác nghiệp tại các vùng chịu ảnh hưởng bởi động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ. (Ảnh THÀNH ĐẠT)
Báo chí là cầu nối tin cậy giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Bất chấp thực tế đó, các thế lực chống phá, thù địch vẫn dùng mọi âm mưu thủ đoạn hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, cổ xúy "tự do ngôn luận, tự do báo chí” bất chấp quy định của pháp luật, xuyên tạc thể chế chính trị, âm mưu làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngày 21/6/1925, báo Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập chính thức ra mắt số đầu tiên. Thời điểm đó, dù trong bối cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp chiếm đóng, đô hộ, báo Thanh niên vẫn được bí mật chuyển từ nước ngoài vào Việt Nam và phổ biến rộng rãi đến quần chúng nhân dân.
Sự ra đời của báo Thanh niên có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bởi thông qua những trang báo, người dân trong nước đã được biết đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từng bước được khơi thông tư tưởng, xác định rõ con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam.
Sự ra đời của báo Thanh niên cũng chính thức đặt viên gạch đầu tiên cho nền báo chí cách mạng Việt Nam.
Ngày 21/6 hằng năm chính thức được chọn làm Ngày Báo chí Việt Nam theo Quyết định số 52 (ngày 5/2/1985) của Ban Bí thư Trung ương Đảng nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm xã hội của báo chí, thắt chặt mối quan hệ giữa báo chí với quần chúng nhân dân, đồng thời tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí.
Ngày 21/6/2000, nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Báo chí Việt Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định đổi tên gọi Ngày Báo chí Việt Nam là Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy ngay từ khi mới ra đời, báo chí cách mạng Việt Nam đã nhận được sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để báo chí cách mạng thật sự là nền báo chí của nhân dân, phục vụ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân, nên từ buổi đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tính chất của báo chí; cũng như vai trò, nghĩa vụ, đạo đức, phong cách của người làm báo.
Người chỉ rõ: "Nhiệm vụ của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”; "Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng”. Để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang, người làm báo và cơ quan báo chí phải luôn "cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa”; "nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động”. Chính vì thế, "Tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành,...) phải có lập trường chính trị vững chắc”.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách mạng Việt Nam trong suốt chặng đường 98 năm hình thành và phát triển đã không ngừng trưởng thành, củng cố vai trò, vị thế vững chắc của mình trong đời sống xã hội, thật sự là ngọn cờ tư tưởng, là cầu nối tin cậy giữa Đảng với nhân dân.
Báo chí luôn đồng hành cùng dân tộc, cổ vũ các tầng lớp nhân dân vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết, thực hiện thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam; chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những người làm báo đã không quản khó khăn, gian khổ có mặt trên các mặt trận để kịp thời phản ánh mọi diễn biến của phong trào cách mạng. Hàng trăm nhà báo-liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bước vào giai đoạn mới, đặc biệt là những năm gần đây, báo chí cách mạng Việt Nam có những bước tiến vượt bậc về chất lượng, nội dung, hình thức cũng như ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học-công nghệ tạo ra những sản phẩm đa dạng, có giá trị để phục vụ và thúc đẩy sự phát triển của đất nước, là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng-văn hóa.
Trong các thời kỳ lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta luôn chú trọng công tác chỉ đạo, định hướng, tạo mọi điều kiện để báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển.
Báo chí Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là yêu cầu tất yếu vì "Đảng Cộng sản Việt Nam-Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013).
Cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng các hoạt động báo chí, Đảng và Nhà nước còn tạo môi trường thuận lợi cho các cơ quan báo chí và người làm báo phát huy tốt vai trò của mình.
Cụ thể tại Điều 60, Hiến pháp năm 2013 đề ra nhiệm vụ "phát triển các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đồng thời Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do báo chí, quyền tự do hoạt động nghề nghiệp của người làm báo, những định hướng quan trọng này đã được thể chế trong các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu biểu là Luật Báo chí năm 2016.
Nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí tại Việt Nam, các đối tượng chống phá, thù địch tìm mọi âm mưu, thủ đoạn hòng xuyên tạc, hạ thấp sứ mệnh của báo chí, kêu gọi một nền báo chí "phi chính trị”, nằm ngoài sự điều hành, chỉ đạo của Đảng, kêu gọi thay đổi thể chế chính trị để thực hiện cái gọi là "tự do tuyệt đối” cho báo chí, với luận điệu cho rằng: "Thể chế hiện nay không tạo môi trường để thay đổi báo chí được, mà phải thay đổi thể chế sâu rộng”.
Lợi dụng một số sai sót, khuyết điểm của người làm báo và cơ quan báo chí, các đối tượng chống phá lập tức thổi phồng, coi đó là bản chất của nền báo chí cách mạng Việt Nam vì đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, do đó cần phải thay đổi những quy định về quản lý báo chí hiện nay, "trả tự do hoàn toàn cho báo chí” để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Bằng việc đưa thông tin thất thiệt, sai sự thật trên mạng xã hội, các đối tượng chống phá bịa đặt rằng báo chí Việt Nam "không vì lợi ích của nhân dân mà chỉ nhằm bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của Đảng và quan chức cao cấp” để gây hoang mang, hoài nghi, từng bước làm suy giảm niềm tin của người dân với nền báo chí cách mạng Việt Nam, nghi ngờ những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được phổ biến rộng rãi trên diễn đàn báo chí từ Trung ương đến địa phương.
Các đối tượng nỗ lực "dọn đường”, tạo cớ cho cái gọi là "nhà báo độc lập”, "nhà báo tự do” xuất hiện, và đăng tải tràn lan những thông tin phản ánh phiến diện, chủ quan đối với các vấn đề xã hội, thậm chí xuyên tạc, bóp méo các sự việc nổi cộm nhằm phục vụ cho những âm mưu đen tối.
Khi một số "nhà báo độc lập” có hành vi vi phạm pháp luật và bị cơ quan chức năng xử lý, lập tức các đối tượng phản động đồng loạt lên án Việt Nam "vi phạm nhân quyền”, "đàn áp nhà báo”, "tấn công vào nền tự do báo chí và hoạt động báo chí độc lập”...
Lợi dụng những báo cáo thiếu khách quan, sai sự thật của một số tổ chức quốc tế về tình hình tự do báo chí Việt Nam, các cá nhân, tổ chức thù địch, thiếu thiện chí đã cáo buộc Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tình hình báo chí "rất tồi tệ” để rồi kích động, kêu gọi các phần tử cực đoan, những cá nhân nhẹ dạ, thiếu hiểu biết tham gia đấu tranh đòi "tự do báo chí đích thực”, ký tên vào các bản kiến nghị, thư ngỏ đòi thả tự do cho các nhà báo vi phạm pháp luật bị xử lý…
Cùng với đó, các đối tượng chống phá không ngớt đánh bóng cho cái gọi là "giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền phương Tây” như một hình mẫu để học hỏi, hướng lái nhận thức của cộng đồng rằng tự do báo chí chỉ có được khi nằm ngoài sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, kêu gọi Việt Nam phải thay đổi chế độ, phải "đa nguyên, đa đảng”.
Với âm mưu "nội công, ngoại kích”, không chỉ thực hiện các hoạt động chống phá ở trong nước, từ bên ngoài, các tổ chức, cá nhân chống cộng hải ngoại liên tục cổ xúy, kích động, cũng như bảo trợ cho những đối tượng lợi dụng tự do báo chí chống phá Việt Nam khiến cho diễn biến của vấn đề ngày càng trở nên phức tạp.
Các đối tượng tìm mọi cách kêu gọi sự can thiệp của những tổ chức nhân quyền quốc tế đối với hoạt động báo chí ở Việt Nam, đòi "quốc tế hóa” các vấn đề nội bộ, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, vận động, kêu gọi chính phủ các nước gây sức ép đối với Việt Nam trong vấn đề quyền con người cũng như các vấn đề khác như kinh tế, chính trị, ngoại giao,...
Cần khẳng định rằng sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động báo chí không nhằm mục đích nào khác là định hướng báo chí phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, với các nhiệm vụ cụ thể đó là: thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí.
Đồng thời báo chí cũng góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Song song đó, báo chí làm nhiệm vụ phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân; phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực trong xã hội; góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng của các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Ở phương diện đối ngoại, báo chí góp phần mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, hữu nghị, hợp tác, phát triển bền vững.
Theo Báo Nhân Dân
Đây là Chương trình đang được trông chờ, kỳ vọng. Rất mong các đồng chí hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo yêu cầu để chương trình này trở thành một chương trình đúng theo nghĩa của Chương trình Khoa học và công nghệ đặc biệt cấp quốc gia.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân nói riêng; Người đã đưa ra nhiều chỉ dẫn quan trọng về chống chủ nghĩa cá nhân. Trong bối cảnh mới, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống chủ nghĩa cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, xứng đáng với niềm tin và sự kỳ vọng lớn lao của quần chúng nhân dân.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp yêu cầu của lịch sử.
Xây dựng "thế trận lòng dân” là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, được vận dụng một cách linh hoạt trong thực tiễn cuộc sống. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu cái gì làm trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ thống tư tưởng mang ý nghĩa và giá trị thời đại, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Vấn đề này luôn là cốt yếu nhằm thống nhất những nhận thức chưa đúng, đồng thời phản bác sự xuyên tạc nhằm hạ thấp, phủ nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.
Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Những thành tựu to lớn trong hội nhập quốc tế nói riêng, trong công cuộc đổi mới của Việt Nam nói chung chính là những luận cứ xác đáng, hữu hiệu để bác bỏ luận điệu "Không thể có độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam”.