Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Quốc Vượng vừa ký ban
hành văn bản số 04-HD/UBKTTW hướng dẫn thực hiện một số Điều trong Quy định số
102-QĐ/TW, ngày 15-11-2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.
Dưới đây là những hướng dẫn cụ thể để thực hiện Quy định 102:
Xử lý đảng viên vi phạm sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc
nghỉ hưu
Khoản 2, Điều 1 trong hướng dẫn quy định: "Đảng viên sau khi chuyển
công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu mới phát hiện vi phạm vẫn phải xem xét, kết
luận; nếu vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật thì phải thỉ hành kỷ luật theo
đúng quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước và những nội dung nêu
trong Quy định này”.
Đảng viên sau khi chuyển công tác, nghỉ việc hoặc nghỉ hưu và đã
chuyển sinh hoạt đảng mới phát hiện có vi phạm ở nơi sinh hoạt đảng trước đây
mà chưa được xem xét, xử lý thì tổ chức đảng cấp trên trực tiếp của các tổ chức
đảng đó xem xét, xử lý theo quy định.
Khi đang xem xét, xử lý đảng viên vi phạm mà tổ chức đảng nơi đảng
viên vi phạm đang sinh hoạt bị giải thể, sáp nhập, chia tách hoặc kết thúc hoạt
động thì tổ chức đảng có thẩm quyền vẫn tiếp tục xem xét, xử lý hoặc báo cáo tổ
chức đảng cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng đó xem xét, xử lý kỷ luật đảng
viên theo quy định.
Về nguyên tắc xử lý kỷ luật, khoản 3, Điều 2 quy định: "Khi xem
xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức
độ, tác hại, nguyên nhân vi phạm, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, thái độ
tiếp thu phê bình và sửa chữa, khắc phục khuyết điểm, vi phạm, hậu quả đã gây
ra, mục tiêu, yêu cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng
Đảng”
Chứng cứ đến đâu kết luận đến đấy, không suy diễn
Khi xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, phải làm rõ nội
dung, tính chất, mức độ, tác hại, động cơ, nguyên nhân của vi phạm, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ và căn cứ vào thái độ tự giác, tinh thần quyết tâm sửa chữa
khuyết điểm, vi phạm và khắc phục hậu quả đã gây ra, chứng cứ đến đâu kết luận
đến đấy, không suy diễn. Đồng thời, phải xét hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách
quan, toàn diện nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác
xây dựng Đảng.
Đảng viên vi phạm bị kỷ luật cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức
vụ) ở Khoản 2 của các điều từ Điều 7 đến Điều 34 thì tổ chức đảng có thẩm quyền
căn cứ vào quy định nêu trên để xem xét, quyết định cụ thế: Cảnh cáo hoặc cách
chức một, một số hoặc tất cả các chức vụ trong Đảng đối với đảng viên đó.
Đảng viên vi phạm bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo, nếu xét thấy
không còn đủ uy tín thì tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định cho miễn nhiệm hoặc
đề nghị cho thôi giữ chức vụ đó.
Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không "xử lý nội
bộ"
Khoản 5, Điều 2 quy định: "Đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự, không
"xử lý nội bộ”. Nếu bị toà án tuyên phạt từ hình phạt cải tạo không giam
giữ trở lên thì phải khai trừ; nếu bị xử phạt bằng hình phạt thấp hơn cải tạo
không giam giữ hoặc được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt hành
chính thì tuỳ nội dung, mức độ, tính chất, tác hại, nguyên nhân vi phạm và các
tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ mà xem xét, thi hành kỷ luật đảng một cách
thích hợp
Cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện trở
lên khi phát hiện đảng viên vi phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan tư pháp có thẩm quyền để xem xét, xử lý,
không được giữ lại để xử lý nội bộ.
Đảng viên vi phạm pháp luật đang bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền
thụ lý theo quy định của pháp luật thì tổ chức đảng không được can thiệp để đảng
viên chỉ bị xử lý kỷ luật về Đảng, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử
lý về chính quyền, đoàn thể.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án của toà án tuyên phạt đối
với đảng viên từ cải tạo không giam giữ trở lên có hiệu lực pháp luật thì toà
án phải sao gửi bản án đến cấp uỷ, ban thường vụ cấp ủy hoặc ủy ban kiếm tra của
cấp ủy quản lý đảng viên. Căn cứ vào nội dung bản án, uỷ ban kiểm tra quyết định
hoặc đề nghị cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy quyết định xử lý kỷ luật khai trừ đảng
viên theo quy định.
Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm
Khoản 1, Điều 3 quy định: "Thời hiệu xử lý kỷ luật về Đảng là thời
hạn được quy định trong Quy định này mà khi hết thời hạn đó thì đảng viên có
hành vi vi phạm không bị xử lý kỷ luật”.
Đảng viên vi phạm ở bất cứ thời điểm nào đều phải được tổ chức đảng
có thẩm quyền kiểm tra, làm rõ, kết luận và biểu quyết hình thức kỷ luật cụ thể.
Sau đó căn cứ vào kết quả biểu quyết và đối chiếu với quy định về thời hiệu xử
lý kỷ luật để quyết định thi hành hoặc không thi hành kỷ luật đối với đảng viên
vi phạm.
Ví dụ: Đảng viên A có vi phạm cách thời điểm xem xét kỷ luật là
trên 10 năm. Tổ chức đảng có thẩm quyền sau khi xem xét nội dung, tính chất, mức
độ vi phạm, biểu quyết quyết định kỷ luật với kết quả là cảnh cáo. Đối chiếu với
quy định về thời hiệu kỷ luật thì tại thời điểm quyết định kỷ luật đã hết thời
hiệu xử lý kỷ luật nên đảng viên đó không bị thi hành kỷ luật về Đảng. Trường hợp
kết quả biểu quyết ở hình thức khai trừ, đối chiếu với quy định về thời hiệu, đảng
viên đó bị kỷ luật bằng hình thức khai trừ.
Điểm b, Khoản 1, Điều 3: "Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời
điểm có hành vi vi phạm. Nếu trong thời hạn xử lý kỷ luật được quy định tại Điểm
a Khoản này, đảng viên có hành vi vi phạm mới thì thời hiệu xử lý kỷ luật đối với
vi phạm cũ được tính lại kể từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới”.
Ví dụ: Đảng viên A có vi phạm vào ngày 02/5/2015 và còn trong thời
hiệu xử lý kỷ luật, đến ngày 08/9/2017 lại có vi phạm mới thì thời hiệu đối với
vi phạm cũ được tính lại từ ngày 08/9/2017. Tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét
từng nội dung vi phạm và quyết định chung bằng một hình thức kỷ luật.
- Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm có hành vi vi phạm
đến thời điểm tổ chức đảng có thẩm quyền ra quyết định kiểm tra, xem xét kỷ luật
đảng viên; trường hợp vi phạm xảy ra liên tục kéo dài thì thời hiệu được tính từ
thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
Ví dụ: Đảng viên A có hành vi vi phạm liên tục kéo dài trong thời
gian 3 năm (từ ngày 08/3/2013 đến ngày 08/3/2016), đến nay mới bị phát hiện
hành vi vi phạm trong thời gian đó, thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt
hành vi phạm ngày 08/3/2016 đến khi tổ chức đảng có thẩm quyền quyết định kiểm
tra, xem xét kỷ luật.
Không tính lại thời hiệu đối với đảng viên đã bị thi hành kỷ luật
nhưng sau đó, tổ chức đảng cấp trên quyết định lại (chuẩn y, tăng hoặc giảm)
hình thức kỷ luật đối với đảng viên đó.
Ví dụ: Đảng viên A bị kỷ luật khiển trách, đảng viên đó khiếu nại
lên các tổ chức đảng cấp trên; tổ chức đảng giải quyết khiếu nại cuối cùng quyết
định chuẩn y hình thức kỷ luật khiển trách đối với đảng viên đó (thời gian từ
khi có hành vi vi phạm đến khi có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng là
trên 5 năm), vì không tính lại thời hiệu nên đảng viên đó vẫn phải chấp hành
quyết định kỷ luật của tổ chức đảng cấp trên.
Các trường hợp chưa xem xét, xử lý kỷ luật và không xử lý kỷ luật
Khoản 1, Điều 5 quy định: "Đảng viên vi phạm đang trong thời gian
mang thai, nghỉ thai sản, đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc đang mất khả năng nhận
thức, bị ốm nặng đang điều trị nội trú tại bệnh viện được cơ quan y tế có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật (từ cấp huyện trở lên) xác nhận thì chưa xem
xét, xử lý kỷ luật”.
-"Bệnh hiểm nghèo” là bệnh nguy hiểm đến tính mạng của người bị mắc
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
- Thời gian chưa xem xét, xử lý kỷ luật nêu trên không tính vào thời
hiệu xử lý kỷ luật về Đảng.
Ví dụ: Đảng viên A vi phạm cách đây 4 năm, khi tổ chức đảng có thẩm
quyền xem xét, kỷ luật về Đảng thì đồng chí bị ốm phải điều trị nội trú ở bệnh
viện thì thời gian điều trị này không tính vào thời hiệu xử lý kỷ luật.
Khoản 2, Điều 5 quy định:"Đảng viên vỉ phạm đã qua đời, tổ chức đảng
xem xét, kết luận, không xử lý kỷ luật, trừ trường hợp đảng viên đỏ vi phạm kỷ
luật đặc biệt nghiêm trọng”.
Đảng viên qua đời, sau đó mới phát hiện có vi phạm thì không tiến
hành kiểm tra. Khi đang kiểm tra hoặc xem xét, xử lý kỷ luật mà đảng viên vi phạm
qua đời thì chỉ kết luận, không thi hành kỷ luật. Trường hợp đảng viên vi phạm
đặc biệt nghiêm trọng qua đời thì vẫn kiểm tra, kết luận và xử lý kỷ luật.
Giải thích từ ngữ
Ngoài những nội dung giải thích từ ngữ tại Điều 6 trong Quy định,
các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
-Người đứng đầu là người chịu trách nhiệm cao nhất
trong các tổ chức (cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị) trong lãnh đạo, chỉ đạo,
tố chức thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức đó theo chức trách, nhiệm vụ, quyền
hạn được giao.
-Cấp phó của người đứng đầu là người được phân công
giúp người đứng đầu phụ trách lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức (cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị)
phải chịu trách nhiệm như người đứng đầu về chức trách, nhiệm vụ được giao.
-Cán bộ dưới quyền (mà người đứng đầu phải chịu trách
nhiệm liên đới) là cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên hoặc sĩ quan, hạ sĩ
quan, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang ở trong tổ chức, cơ quan, đơn vị mà đảng
viên đó là cấp trưởng, cấp phó hoặc cấp ủy viên được phân công trực tiếp phụ
trách.
- Trách nhiệm của đảng viên (kể cả cấp ủy viên):
+ Trách nhiệm trực tiếp là trách nhiệm đối với hành vi do đảng
viên đó trực tiếp gây ra trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, phụ trách, tổ chức
thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Trách nhiệm liên đới là trách nhiệm của đảng viên khi để xảy ra
vi phạm trong lĩnh vực công tác được giao phụ trách hoặc trong cơ quan, tố chức,
đơn vị cấp dưới trực tiếp phụ trách hoặc khi cán bộ dưới quyền trực tiếp quản
lý, phụ trách vi phạm.
-Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của đảng viên khi phạm tội phải
chịu sự tác động của các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, chịu các hình phạt
do Bộ Luật Hình sự quy định.
Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ
* Điểm a, Khoản 1, Điều 8 liên quan đến: "Thiếu trách nhiệm trong
việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của
Đảng, pháp luật của Nhà nước”
- Tổ chức nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghị quyết, chỉ thị,
quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định
của Mặt trận Tố quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội không kịp thời, không
đúng kế hoạch, đối tượng, thành phần và không đầy đủ nội dung.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc không
chỉ đạo thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định,
quy chế, kết luận của Đảng, của cấp trên và cấp mình.
-Không xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể; không
phân công nhiệm vụ cho từng đơn vị, tổ chức và cá nhân phụ trách chịu trách nhiệm
triển khai thực hiện hoặc có xây dựng chương trình, kế hoạch nhưng không tổ chức
triển khai thực hiện.
Điểm c, Khoản 1, Điều 8 quy định:"Bị xúi giục, lôi kẻo vào những
việc làm trái nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; vi phạm quy chế dân chủ,
quy chế làm việc của cấp uỷ, tổ chức đảng, các quy định của cơ quan, tô chức,
đơn vị nơi công tác ”.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy
nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản, gồm: tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa
phương phục tùng Trung ương; đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và
phê bình; đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; giữ mối
liên hệ mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Đảng viên vi phạm một trong những nguyên tắc trên là vi phạm kỷ luật
của Đảng.
Điểm a, Khoản 2, Điều 8: "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phủ quyết
ý kiến của đa số thành viên khi thông qua nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy
định, quy chế, kết luận thuộc thẩm quyền của tập thể”.
-Quyết định theo ý kiến chủ quan của mình trong khi tập thể đang
thảo luận đa số còn có ý kiến khác nhau hoặc phủ quyết ý kiến của đa số đã thống
nhất thông qua.
-Dùng chức vụ, quyền hạn của mình để bác bỏ, phủ quyết ý kiến của
đa số hoặc tạo phe cánh khống chế người khác phải biểu quyết, bỏ phiếu theo ý
kiến cá nhân của mình dẫn đến ban hành nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định,
kết luận không đúng.
Vi phạm các quy định về bầu cử
Điểm b, Khoản 3, Điều 9: "Có hành vi, việc làm phá hoại cuộc bầu cử”.
-Cố tình không đi bầu cử, có hành vi ngăn cản, đe dọa, cưỡng ép, dụ
dỗ, mua chuộc, lôi kéo người khác không thực hiện quyền ứng cử, đề cử và bầu cử.
-Có các hành vi như: hủy hoại tài liệu, văn bản, thông báo về bầu
cử; làm sai lệch hoặc tác động làm sai lệch kết quả bầu cử.
Vi phạm trong công tác tổ chức, cán bộ
Điểm b, Khoản 3, Điều 11: "Có hành vi chạy chức, bằng cấp, vị trí
công tác, luân chuyển; mua chuộc để bản thân hoặc người khác được quy hoạch, bổ
nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, chuyển đổi vị trí công tác ”.
Dùng tiền, tài sản, các giá trị vật chất hoặc phi vật chất và các
mối quan hệ để hối lộ, lôi kéo, mua chuộc, tác động, can thiệp đến cá nhân, tổ
chức có trách nhiệm giải quyết các công việc nêu trên cho bản thân hoặc người
khác.
Vi phạm trong công tác phòng, chống tội phạm
Điểm d, Khoản 1, Điều 13: "Thiếu trách nhiệm trong quản lý, giáo dục
dẫn đến có vợ (chồng), con hoặc cấp dưới trực tiếp phạm tội”
Con của đảng viên phạm tội mà đảng viên phải chịu trách nhiệm liên
đới gồm: con đẻ, con nuôi hợp pháp, con dâu, con rể cùng sống, sinh hoạt trong
gia đình và trực tiếp phụ thuộc vào việc nuôi dưỡng, quản lý của đảng viên đó.
Vi phạm về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Điểm a, Khoản 1, Điều 15:"Viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên. Cùng
người khác tham gia viết, ký tên trong cùng một đơn tố cáo ”.
-Đơn tố cáo giấu tên là đơn không ký và không ghi rõ họ tên. Đơn tố
cáo mạo tên là đơn ký hoặc ghi tên người khác vào đơn tố cáo.
-Trực tiếp viết đơn tố cáo cho nhiều người cùng ký tên.
-Phác thảo đề cương, đọc nội dung đơn tố cáo cho người khác viết lại,
đánh máy hoặc tự đánh máy rồi cùng người khác ký tên vào đơn tố cáo.
Điểm d, Khoản 1, Điều 15:"Thiếu trách nhiệm, gây phiền hà, sách
nhiễu trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc gây khó khăn, cản trở đảng
viên, công dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo”
-Nhận được đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và trách nhiệm
giải quyết nhưng dìm bỏ, không xem xét, giải quyết.
-Xem xét, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo không kịp thời theo
đúng thời gian quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà không có lý do
chính đáng; giải quyết không khách quan; tiết lộ danh tính, địa chỉ, bút tích của
người tố cáo cho tổ chức, cá nhân không có trách nhiệm biết.
-Đưa toàn văn hoặc một phần nội dung đơn tố cáo hoặc đưa đơn tố
cáo cho người bị tố cáo.
-Tự đặt ra các quy định hoặc yêu cầu trái với quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đối với người khiếu nại, tố cáo.
-Không chuyển đơn tố cáo (không thuộc thẩm quyền giải quyết) cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giải quyết.
-Không thông báo kết quả giải quyết tố cáo (bằng hình thức thích hợp)
cho người tố cáo biết.
Điểm đ, Khoản 2, Điều 15: "Đe doạ, trả thù, trù dập, xúc phạm người
phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ về
hành vi tham nhũng, tiêu cực hoặc người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
cáo”
-Có lời nói hoặc thông qua người khác đe dọa xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của người tố
cáo.
-Ngăn cản, gây khó khăn cho việc thực hiện các quyền, lợi ích hợp
pháp trong việc nâng ngạch, nâng lương, khen thưởng, bổ nhiệm và các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của người tố cáo.
-Phân biệt đối xử, lôi kéo người khác cản trở việc thực hiện nhiệm
vụ, công vụ của người tố cáo.
-Xử lý trái quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thay đổi
công việc của người tố cáo với động cơ trù dập.
-Trực tiếp hoặc thuê, nhờ người khác đe dọa, trấn áp, trả thù, trù
dập, khống chế, vu khống người trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo.
-Trực tiếp gặp, điện thoại, nhắn tin hoặc dùng các hành vi khác
gây sức ép với người trực tiếp giải quyết hoặc cấp trên của họ nhằm làm sai lệch
nội dung giải quyết khiếu nại, tố cáo.
- Điểm g, Khoản 2, Điều 15: "Tố cáo mang tính bịa đặt, vu khống, đả
kích, bôi nhọ thanh danh, gây tổn hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người
khác ”.
-Tố cáo sự việc mà mình biết là không có hoặc tự bịa chuyện, dựng
chuyện, nghĩ ra điều không có thật để tố cáo.
- Đảng viên thực hiện quyền tố cáo nhưng được cơ quan có thẩm quyền
kết luận có nội dung đúng, có nội dung sai hoặc đúng về hiện tượng nhưng không
đúng về bản chất thì không bị coi là tố cáo bịa đặt, vu khống.
Vi phạm quy định về kết hôn với người nước ngoài
Điểm c, Khoản 3, Điều 25 quy định:"Kết hôn với người nước ngoài hoặc
người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà không báo cáo bằng văn bản với chi bộ về
lai lịch của người đó, hoặc đã báo cáo nhưng tổ chức đảng có thẩm quyền không đồng
ý nhưng vẫn cố tình thực hiện”
Việc đồng ý hay không đồng ý cho đảng viên kết hôn với người nước
ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài được tổ chức đảng có thẩm quyền
thực hiện bằng văn bản.
Vi phạm quy định về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia
đình
-Trường hợp không vi phạm về chính sách dân số, kế hoạch hoá gia
đình, gồm:
+ Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người
thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm
số dân (tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết) theo công bố chính thức của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
+ Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.
+ Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con
trở lên.
+ Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ
có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.
+ Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một
hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền,
đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.
+ Cặp vợ chồng đã có con riêng (con đẻ): sinh một con hoặc hai
con, nếu một trong hai người đã có con riêng (con đẻ); sinh một hoặc hai con trở
lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng (con đẻ). Quy định
này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và
các con hiện đang còn sống.
-Trường hợp sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện
các biện pháp kế hoạch hoá gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người
mẹ (có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên) thì thôi không
xem xét, xử lý kỷ luật).
Hướng dẫn này có hiệu lực kể từ ngày ký (22/3/2018). Trong quá
trình thực hiện, nếu có vướng mắc, phát sinh, các cấp uỷ, tổ chức đảng, ủy ban
kiểm tra các cấp báo cáo Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xem xét, quyết định./.
TheoVOV.VN