Trong cuộc thảo luận về chất lượng của hệ đào tạo tại chức, hầu hết ý kiến cho rằng chất lượng của đào tạo đó là rất thấp, và quyết định của Đà Nẵng không tuyển dụng sinh sinh hệ này là một phản ứng mạnh mẽ thể hiện nhận định đó. Vậy có cách nào giải quyết tận gốc vấn đề đã được nêu ra. Chúng tôi xin đóng góp vài ý kiến
Hệ đào tạo chính quy và không chính quy
Trước hết, nên thống nhất cách hiểu về từ ngữ. Hệ đào tạo trước đây gọi là “tại chức” thì hiện nay Bộ GD&ĐT gọi là hệ “vừa làm vừa học”, ngoài ra Bộ còn nói đến hệ đào tạo từ xa, hệ tự học có hướng dẫn v.v… Tất cả các hệ đào tạo đó được gộp dưới một tên gọi chung là hệ đào tạo không chính quy (KCQ), để phân biệt với hệ đào tạo chính quy (CQ) thông thường. Chúng ta sẽ thảo luận chung về hệ KCQ.
Hệ CQ được tuyển sinh chặt chẽ, phần lớn là học và thi tại trường, ban ngày, đào tạo chủ yếu theo cách mặt-giáp-mặt (người dạy và người học gặp nhau nhiều), thời gian học tập một năm thường 8, 9 tháng …
Còn hệ KCQ, ngược lại, tuyển sinh không chặt chẽ (hoặc chỉ ghi danh học), phần lớn học và thi ở các địa điểm “liên kết” xa trường, học ban đêm, đào tạo chủ yếu theo phương thức giáo dục mở và từ xa (GDM&TX) vì tần suất mặt-giáp-mặt rất thấp, thời gian học trong một năm thường chỉ tối đa vài tháng ở các địa điểm “liên kết”…
Tầm quan trọng của hệ đào tạo KCQ
Bước vào thế kỷ 21 giáo dục đại học (GDĐH) có xu hướng đại chúng hóa mạnh mẽ để đáp ứng hiện tượng tăng hàm lượng tri thức trong mọi sản phẩm và dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu của một xã hội học tập với đòi hỏi học suốt đời. Với xu thế đó trong tương lai GDĐH CQ sẽ dần dần co hẹp lại, còn GDĐH KCQ sẽ ngày càng mở rộng. Như vậy hệ KCQ là một thành tố hết sức quan trọng của GDĐH hiện nay. Cho nên trước vấn đề chất lượng thấp của hệ KCQ, không nên và không thể tìm cách xóa bỏ hoặc thu hẹp hệ KCQ, mà phải phát triển nó với một chất lượng chấp nhận được. Đối với loại hình đào tạo KCQ có cấp bằng thì cần phải có cách quản lý để đảm bảo sao cho sản phẩm đào tạo được dán nhãn đúng với chất lượng của nó.
Ảnh: Thái Phương |
Phương thức đào tạo khác phải có công nghệ đào tạo khác phù hợp
Theo các số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT hiện nay thì ở nước ta có khoảng gần 1 triệu sinh viên (SV) hệ KCQ trong tổng số khoảng gần 2 triệu SV, tức là hệ KCQ chiếm khoảng một nửa tổng số SV đại học. Vấn đề bùng nổ số lượng hệ KCQ không phải là vấn đề của riêng ta, mà là vấn đề của thời đại và thế giới, nên thế giới có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này.
Thật vậy, thực chất của hệ KCQ là đào tạo theo phương thức GDM&TX, không theo phương thức mặt-giáp-mặt thông thường. Muốn đảm bảo chất lượng của GDM&TX phải có công nghệ tương ứng cho GDM&TX chứ không thể sử dụng công nghệ giáo dục mặt-giáp-mặt thông thường cộng với những quy định rất dễ dãi như chúng ta đã làm.
Công nghệ GDM&TX cũng không có gì là bí hiểm, chỉ là bao gồm một hệ thống tài liệu học tập tốt thích hợp và hệ thống công cụ đánh giá chặt chẽ cho mọi chương trình đào tạo đại học, ngoài ra, còn có cơ sở hạ tầng của công nghệ thông tin và truyền thông. Yếu tố quan trọng nhất của công nghệ GDM&TX là đánh giá chặt chẽ kết quả học tập: nếu đào tạo mặt-giáp-mặt sản phẩm đào tạo được đánh giá qua cả một quá trình thì GDM&TX không có điều kiện để đánh giá trong cả quá trình nên buộc phải đánh giá chặt chẽ đầu ra của từng môn học trong chương trình đào tạo.
Xin lấy vài ví dụ ở nước ngoài. Vào thập niên 1990 hai đại học mở của Thái Lan đã đào tạo khoảng 700 nghìn SV KCQ bằng công nghệ GDM&TX, còn 50 trường đại học thông thường khác chỉ tập trung đào tạo tốt khoảng 300 nghìn SV CQ theo phương thức mặt-giáp-mặt.
Sở dĩ chất lượng SV KCQ chấp nhận vì các đại học mở của họ đã xây dựng được hệ thống công cụ đánh giá cho từng môn học của các chương trình đại học, triển khai nhiều lần trong năm rất chặt chẽ như các kỳ tuyển sinh đại học ở ta, ai tích lũy được mọi chứng chỉ đánh giá môn học cho một chương trình đào tạo thì được cấp bằng.
Trường Đại học mở Trung Quốc cũng sử dụng hệ thống công cụ đánh giá như vậy để quản lý chất lượng của hệ đào tạo KCQ và của các đại học tư: Trung Quốc có khoảng 1400 trường đại học tư nhưng chỉ khoảng 200 trường được cấp bằng sau một quy trình kiểm định chất lượng nghiêm khắc, 1200 trường tư còn lại SV theo học nhưng không được cấp bằng, bất kỳ ai muốn có bằng, kể cả những người tự học, thì tham gia các kỳ thi từng môn học của đại học mở nói trên.
Như vậy các đại học mở chẳng những giúp đảm bảo chất lượng của hệ thống đào tạo KCQ mà còn trở thành dấu nối giữa hệ thống GDĐH với xã hội học tập và quá trình học suốt đời.
Giải pháp nâng cáo chất lượng hệ KCQ ở nước ta
Muốn nâng chất lượng của hệ KCQ ở nước ta phải có giải pháp cả về công nghệ và quản lý. Về công nghệ, phải xây dựng được công nghệ GDM&TX thích hợp như đã nói trên, còn về quản lý, phải giải quyết cả vấn đề “nồi cơm”, tức là tăng thu nhập cho các trường đại học và phải phân công lại việc đào tạo hệ KCQ.
Xây dựng hệ thống tài liệu học tập có chất lượng cao và hệ thống công cụ đánh giá thích hợp cho GDM&TX là công đoạn tốn kém mà một trường đại học bình thường khó làm được, Nhà nước phải đầu tư ban đầu thích đáng cho một vài trường làm đầu mối thực hiện, thích hợp nhất là 2 đại học mở. Có kinh phí đầy đủ, các trường này sẽ huy động đội ngũ giảng viên giỏi trong toàn hệ thống GDĐH xây dựng hệ thống nói trên cho mọi chương trình đào tạo đại học.
Hai đại học mở của ta được thành lập từ năm 1993 để tập trung cho GDM&TX, nhưng đã bị “bỏ quên”, chưa hề được đầu tư thích đáng nào của Nhà nước cho chức năng này, và đã trở thành các “đại học khép”.
Điều đáng tiếc là một đề án phát triển GDM&TX 2005-2010 đã được Thủ tướng phê duyệt từ năm 2005 nhưng cho đến nay chưa được thực hiện! Tình trạng nói trên thể hiện một khiếm khuyết lớn của chiến lược phát triển GDĐH nước ta. Chỉ cần Nhà nước vài phần trăm chi phí cho các trường đại học “đẳng cấp thế giới” chia sẻ cho hai đại học mở thì cũng có thể giúp họ xây dựng hệ thống công nghệ GDM&TX tốt, từ đó hai đại học mở có và các trường đại học khác có thể sử dụng chúng để nâng cao chất lượng đào tạo cho một nửa tổng số SV đại học nước ta theo học hệ KCQ
Vấn đề tăng thu nhập cho các trường đại học thì rất phức tạp, tuy nhiên không phải không có lối ra. Không thể không tính đến việc nâng lương cho giảng viên đại học, nhưng đó là biện pháp lâu dài.
Ngoài ra cần sử dụng cơ chế chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước, người học và xã hội. Công thức “học phí cao+ hỗ trợ cao” cần được thực hiện: tăng học phí đến mức đảm bảo phần lớn chi phí đào tạo, đồng thời sử dụng tốt quỹ tín dụng SV. Cố gắng tăng thích đáng quỹ tín dụng đó và có biện pháp cấp đúng người cần được hỗ trợ thì có thể tăng học phí lên mức thích hợp. Đây là cơ chế tốt nhất đảm bảo công bằng xã hội. Ngoài ra, cần tăng kinh phí nghiên cứu, đặc biệt cho các trường đại học trọng điểm.
Cần tổ chức và phân công lại việc triển khai đào tạo KCQ: hai đại học mở đảm nhiệm đào tạo phần lớn SV KCQ bằng hệ thống công nghệ GDM&TX đã được xây dựng tốt, Nhà nước ủy thác cho hai đại học mở triển khai đánh giá các môn học của mọi chương trình đại học nhiều lần trong năm; các trường khác sử dụng hệ thống công nghệ GDM&TX mà 2 đại học mở đã làm đầu mối xây dựng để đào tạo, có thể họ chỉ triển khai giảng dạy, còn SV tham gia hệ thống đánh giá chung của hai đại học mở. Riêng các đại học trọng điểm quốc gia thì không nên đào tạo KCQ mà tập trung cho nghiên cứu khoa học và đào tạo CQ chất lượng cao.
Trên đây là vài ý kiến về một giải pháp tổng thể để giải quyết tận gốc vấn đề chất lượng của hệ KCQ trong GDĐH nước ta.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy giải pháp này có tính khả thi cao, và chắc chắn sẽ thành công khi có quyết tâm cao của những người lãnh đạo. Chúng thôi hy vọng vào quyết tâm đó, bởi vì sẽ là vô nghĩa nếu cứ nói đến chất lượng GDĐH mà không kiểm soát được chất lượng của một nửa tổng số SV đại học nước ta.
Theo VietNamnet
Năm 2011, chỉ tiêu tuyển sinh ĐH, CĐ dự kiến tăng 7% so với năm 2010
Nhu cầu thị trường về mức độ kiến thức, đào tạo đã vượt quá khả năng đáp ứng của các trường đại học truyền thống và mở ra xu hướng tư nhân hóa giáo dục. Các hình thức khác nhau của trường đại học tư (vì lợi nhuận và phi lợi nhuận) đang tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu về giáo dục sau trung học.
Ngoài việc đảm nhiệm 260 tiết dạy tại trường và những tiết vượt giờ bắt buộc (do thiếu giảng viên), anh Th. , hiện đang giảng dạy tại một trong những trường ĐH lớn nhất tại Hà Nội, còn tham gia đứng lớp tại chức do trường tổ chức. Tuy không nói ra, nhưng nhẩm tính từ số lượng tiết học, giá thành... thì mỗi tháng, các giảng viên "chạy sô" dạy tại chức cũng có thể nhận được trên dưới 20-25 triệu đồng.
Trẻ em khuyết tật chịu nhiều thiệt thòi khi phải đối mặt với sự phân biệt, đối xử ngay trong gia đình, xã hội và cộng đồng. Vì vậy, giáo dục hòa nhập được coi là xu hướng chung của phần lớn các nước trên thế giới và trong đó có Việt Nam.
(HBĐT) - Ông Phạm Khắc Dũng, Phó phòng LĐ-TB&XH huyện Tân Lạc cho biết: Thời gian đầu, khi bộ phận chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em được sáp nhập vào ngành LĐ-TB&XH đã có sự xáo trộn trong khâu tổ chức, nhiều nơi, đội ngũ cán bộ làm công tác này chủ yếu là kiêm nhiệm, không chuyên sâu và thường xuyên thay đổi nên phần nào đã ảnh hưởng đến hiệu quả công việc.
Sự mất cân đối trong lựa chọn ngành nghề của thí sinh càng được thể hiện một cách rõ nét trong những năm trở lại đây. Trong khi công tác hướng nghiệp còn yếu kém thì lời hứa xây dựng một trung tâm dự báo nguồn nhân lực quốc gia vẫn còn trên giấy.