(HBĐT) - Chuyển đổi số (CĐS) là yêu cầu tất yếu khách quan, nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn với tình hình phát triển KT-XH của tỉnh; là 1 trong 15 nhiệm vụ trọng điểm của nhiệm kỳ 2020-2025. BTV Tỉnh ủy đang chỉ đạo các ngành chức năng khẩn trương xây dựng dự thảo Nghị quyết về CĐS tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, mở ra cơ hội rất lớn để tỉnh hội nhập nhanh, bền vững.
Hầu hết các hội nghị của tỉnh được thực hiện theo hình thức phòng họp không giấy tờ.
Hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin gia nhập lộ trình chuyển đổi số
Những năm qua, việc ứng dụng công nghệ thông tin (ƯDCNTT) - lộ trình khởi đầu của quá trình CĐS đã diễn ra khá mạnh mẽ, tạo hiệu quả tích cực trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hội nghị của BCH Đảng bộ tỉnh, BTV Tỉnh ủy, UBND, HĐND các cấp, ngành, tổ chức CT-XH thời gian qua được thực hiện qua hình thức trực tuyến. Các cơ quan Đảng, chính quyền duy trì triển khai mô hình phòng họp không giấy. Nếu như trước đây, mỗi hội nghị theo hình thức truyền thống, đại biểu ở các địa phương phải lên tỉnh họp thì nay chỉ cần ở địa phương, đơn vị có thể cập nhật những định hướng, chỉ đạo, điều hành, phát biểu, chia sẻ, đề xuất ý kiến… Công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp hầu hết được thực hiện trong môi trường mạng, vừa bảo đảm công tác phòng, chống dịch vừa giảm tối đa chi phí hội họp, nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều hành những nhiệm vụ chính trị địa phương, cơ quan, đơn vị.
Quá trình ƯDCNTT đã có mặt trong hoạt động tiêu thụ nông sản của bà con các địa phương vùng sâu, vùng xa, khó khăn của tỉnh như quảng bá, bán sản phẩm cá, tôm sông Đà, liên kết đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử; ƯDCNTT trong các lĩnh vực chuyên ngành như nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp, khoa học công nghệ, y tế, giáo dục, hệ thống ngân hàng, tài chính…
Trong những năm qua, tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chính quyền điện tử, ƯDCNTT thực hiện cải cách hành chính, cung cấp nhiều dịch vụ công (DVC) cho người dân và doanh nghiệp, bước đầu mang lại một số kết quả thiết thực. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, đơn vị tích cực ƯDCNTT trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý chuyên ngành. Hệ thống quản lý văn bản và điều hành tác nghiệp được triển khai đồng bộ, liên thông 4 cấp gắn với việc sử dụng chữ ký số chuyên dùng và hộp thư điện tử công vụ. Hệ thống một cửa điện tử, Cổng DVC trực tuyến của tỉnh được triển khai đồng bộ, kết nối với Cổng DVC quốc gia, Cổng hỗ trợ thanh toán trực tuyến quốc gia.
Tính đến hết tháng 8/2021, Cổng DVC trực tuyến cung cấp 620 DVC mức độ 3 và 912 DVC mức độ 4, tích hợp cung cấp 534 DVC trực tuyến với Cổng DVC quốc gia đã góp phần hiện đại hóa công tác quản lý, đảm bảo chính xác, kịp thời trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp. Đưa vào hoạt động thí điểm Trung tâm giám sát điều hành đô thị thông minh, cung cấp một số dịch vụ đô thị thông minh cho người dân, doanh nghiệp. Hệ thống hạ tầng thông tin được quan tâm đầu tư theo hướng hiện đại với 100% xã, phường, thị trấn có mạng lưới cáp quang và trạm phát sóng thông tin di động; đường truyền số liệu chuyên dùng, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến được triển khai từ tỉnh đến cấp huyện và đang triển khai đến cấp xã. Công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin được quan tâm, chú trọng, đã đưa vào hoạt động Trung tâm giám sát an toàn an ninh tập trung.
Việc ƯDCNTT phục vụ xây dựng chính quyền điện tử hướng tới Chính phủ số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước đạt được một số kết quả khả quan. Các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố đã quan tâm đầu tư và đẩy mạnh ƯDCNTT trong quản lý, hiện đại hóa nền hành chính, tạo điều kiện quan trọng để Hòa Bình có chỉ số đánh giá mức độ sẵn sàng cho phát triển CNTT và truyền thông (ICT index) đạt mức trung bình của cả nước. Hạ tầng viễn thông được triển khai đồng bộ, hiện đại, từng bước đáp ứng yêu cầu CĐS. Theo đó, góp phần quan trọng thực hiện lộ trình xây dựng chính quyền điện tử, thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Những hạn chế và thách thức
Theo đánh giá của cơ quan tham mưu, việc ƯDCNTT xây dựng chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số và CĐS toàn diện của tỉnh còn nhiều hạn chế. Chỉ số ICT Index ở mức trung bình thấp của cả nước, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. ƯDCNTT và truyền thông chưa có sự đột phá, việc CĐS trong các doanh nghiệp địa phương còn chậm. Chưa có nhiều doanh nghiệp, cá nhân quan tâm tham gia phát triển và bán hàng trên các sàn thương mại điện tử. Nguồn nhân lực chất lượng cao về CNTT thiếu và yếu. Công tác đấu tranh với tội phạm trên không gian mạng, bảo đảm an toàn, an ninh mạng còn nhiều khó khăn, thách thức.
Xếp hạng CNTT của Hòa Bình so với các tỉnh, thành phố những năm gần đây đều đứng ở thứ hạng trung bình, trong đó có những tiêu chí rất quan trọng đứng ở mức thấp như: Phát triển nguồn nhân lực; triển khai DVC; Cổng thông tin điện tử của tỉnh. Hạ tầng và nền tảng số chưa hướng đến những công nghệ mới, tiên tiến: mạng lưới truyền dẫn mới đạt mức cơ bản, chưa đáp ứng tốt yêu cầu cho các dịch vụ truyền số liệu lớn, chưa triển khai mạng 5G; Trung tâm dữ liệu của tỉnh chưa được đầu tư để ứng dụng công nghệ điện toán đám mây, dữ liệu lớn, internet vạn vật, chuỗi thời gian thực; chưa có đầy đủ hệ thống giám sát và bảo đảm an toàn thông tin mạng toàn tỉnh. Các ứng dụng dịch vụ thông minh trên nền tảng di động liên quan đến các lĩnh vực hoạt động, đời sống, sinh hoạt, điều kiện thiết yếu của Nhân dân chưa nhiều, chưa kịp thời so với nhu cầu của Nhân dân. Cơ sở dữ liệu các ngành chưa có sự kết nối, liên thông, chia sẻ, cần cập nhật bổ sung...
Những hạn chế nêu trên có nguyên nhân chủ quan là: Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo về ƯDCNTT và truyền thông; nhận thức về CĐS của nhiều cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người dân, doanh nghiệp còn hạn chế; tư duy trong CĐS chưa theo kịp sự phát triển; nguồn lực đầu tư cho ƯDCNTT chưa đáp ứng yêu cầu; sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự chặt chẽ. Đây là những thách thức cần giải quyết để thực hiện mục tiêu, lộ trình của tỉnh trong thời gian tới.
Cơ hội lớn để bứt phá, hội nhập
Với mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, phát triển dựa trên trụ cột khoa học công nghệ, tỉnh đặt mục tiêu phải sớm tiếp cận và chủ động nắm bắt, triển khai trong thực tiễn những nội dung, sản phẩm, thành quả quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của việc CĐS đem lại. Nhận thức tầm quan trọng của CĐS đối với tương lai phát triển của tỉnh, BTV Tỉnh ủy chỉ đạo ngành chức năng triển khai các giải pháp cụ thể hóa chương trình hành động về CĐS của tỉnh, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII. UBND tỉnh và các ngành chức năng đang tham mưu BTV Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề về CĐS đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Dự thảo nghị quyết đặt mục tiêu đến năm 2025, cơ bản hoàn thành các mục tiêu xây dựng chính quyền điện tử, thúc đẩy quá trình phát triển đô thị thông minh; từng bước hoàn thành CĐS đối với những chỉ tiêu cơ bản ở một số lĩnh vực quan trọng trên cả 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số; ưu tiên tập trung đẩy nhanh tiến trình CĐS ở một số lĩnh vực. Phấn đấu từng bước nâng tỉnh nằm trong nhóm xếp hạng khá của quốc gia trong bảng xếp hạng đánh giá chỉ số CĐS DTI vào năm 2025.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc CĐS sẽ tạo cơ hội cho tỉnh phát triển mạnh mẽ, đồng chí Ngô Văn Tuấn, Ủy viên BCH T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy chỉ đạo: Xây dựng nghị quyết của BTV Tỉnh ủy về CĐS bám sát định hướng của T.Ư, Chương trình hành động số 06-CTr/TU của Tỉnh ủy. Thống nhất ban hành Nghị quyết chuyên đề của BTV Tỉnh ủy về CĐS tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030. Đến năm 2025, cơ bản hoàn thành các mục tiêu xây dựng chính quyền điện tử, thúc đẩy quá trình phát triển đô thị thông minh; từng bước hoàn thành CĐS trên 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. Ưu tiên, tập trung nguồn lực triển khai CĐS trong một số lĩnh vực có nhu cầu cao, lợi thế cạnh tranh tại địa phương nhằm phát triển KT-XH, gồm: Giáo dục, y tế, nông nghiệp, văn hóa và du lịch, giao thông vận tải và logistics, tài nguyên và môi trường, tài chính - ngân hàng, sản xuất công nghiệp. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh ban hành đề án thực hiện nghị quyết và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả; xác định rõ mục tiêu, giải pháp phù hợp, nguồn lực, ưu tiên bố trí nguồn lực, kinh phí để thực hiện. Về nhiệm vụ trước mắt, cần tập trung nâng cao nhận thức về CĐS, ưu tiên thực hiện một số lĩnh vực như số hóa bản đồ quản lý, sử dụng đất để thu hút, khai thác tốt các nguồn lực phát triển KT-XH.
Bưu điện tỉnh phối hợp đưa sản phẩm cam Cao Phong lên sàn thương mại điện tử.
Lê Chung
Nắm bắt cơ hội thực hiện lộ trình chuyển đổi số
Bùi Đức Nam
Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông
Trong những năm gần đây, chuyển đổi số (CĐS) mở ra cho mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế, tổ chức, cá nhân cơ hội phát triển chưa từng có, gắn với đó là những thách thức, yêu cầu phải tự điều chỉnh. Chính vì vậy, CĐS luôn là đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm trên toàn thế giới.
Với mục tiêu phát triển nhanh, phát triển bền vững, phát triển dựa trên trụ cột khoa học công nghệ, tỉnh phải sớm tiếp cận và chủ động nắm bắt, triển khai trong thực tiễn những nội dung, sản phẩm, thành quả quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, của việc CĐS đem lại. Bắt đầu việc CĐS bằng việc xây dựng, hoàn thiện chính quyền điện tử hướng đến chính quyền số, phát triển dịch vụ đô thị thông minh, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn tỉnh.
Trong thời gian tới, tỉnh cần tập trung triển khai CĐS trên 3 trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và 8 lĩnh vực ưu tiên, gồm: Y tế, giáo dục, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường, sản xuất công nghiệp; xác định 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng CĐS (gồm: Chuyển đổi nhận thức; kiến tạo thể chế, phát triển hạ tầng số; phát triển nền tảng số; an toàn, an ninh mạng; hợp tác quốc tế, nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo) và xác định lấy CĐS trong khối Chính phủ là động lực cho CĐS các lĩnh vực khác.
Phối hợp đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử
Bùi Mạnh Hùng
Phó Giám đốc Bưu điện tỉnh
Thực hiện chỉ đạo của Bộ TT&TT, UBND tỉnh về việc đưa sản phẩm của hộ sản xuất nông nghiệp (SXNN) lên sàn thương mại điện tử (TMĐT), thúc đẩy phát triển kinh tế số nông thôn trên địa bàn, Bưu điện tỉnh đã phối hợp các sở, ngành, tổ chức và các địa phương triển khai nhiều hoạt động hướng dẫn hộ SXNN kỹ năng số, kỹ năng tham gia các hoạt động số, đăng ký tài khoản để đưa sản phẩm nông nghiệp lên sàn TMĐT Postmar.vn.
Đến cuối tháng 10, Bưu điện tỉnh đã mở 20 lớp đào tạo, tập huấn cho gần 600 hộ SXNN, có 287 hộ SXNN và HTX đăng ký tài khoản mua bán trên sàn TMĐT Postmar.vn, đưa 80 sản phẩm lên sàn TMĐT; bên cạnh đó, có gần 7.000 hội viên nông dân được cập nhật kiến thức, đăng ký, hoặc tiếp xúc và biết đến sàn TMĐT. Thông qua đó, hộ SXNN từng bước tiếp cận với sàn TMĐT, nền tảng số, thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong bối cảnh hạn chế do dịch bệnh.
Chuyển đổi từ "sản xuất nông nghiệp” sang "kinh tế nông nghiệp”
Nguyễn Hữu Tài
Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông, lâm, thủy sản Hòa Bình
Thời gian qua, ngành nông nghiệp đã từng bước tiếp cận với xu thế chuyển đổi số (CĐS) tại một số lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, phát triển lâm nghiệp. Tiềm năng của CĐS trong nông nghiệp của tỉnh là rất lớn.
Hiện nay, UBND tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình CĐS tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, hướng tới mục tiêu thúc đẩy chuyển đổi từ "sản xuất nông nghiệp” sang "kinh tế nông nghiệp”; phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao theo hướng chú trọng nông nghiệp thông minh, nông nghiệp chính xác, tăng tỷ trọng của nông nghiệp công nghệ số trong nền kinh tế. Trong đó, tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ, nông nghiệp thông minh; xây dựng hệ thống dữ liệu về đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản; ứng dụng công nghệ tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh; truy xuất nguồn gốc sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm qua các sàn thương mại điện tử, các ứng dụng về công nghệ thông in, nền tảng số đem lại giá trị mới, gia tăng cao cho kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Từ nhiều nhiệm kỳ qua, vấn đề miễn nhiệm, từ chức đã được đặt ra trong nghị quyết của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, được luật hóa trong hệ thống pháp luật nhà nước.
(HBĐT) - Ngày 11/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XV, dưới sự điều hành của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội đã tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn các thành viên Chính phủ đối với nhóm vấn đề giáo dục - đào tạo và lĩnh vực kế hoạch - đầu tư. Đối với các nhóm vấn đề này, trách nhiệm trả lời chính là Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng. Ngoài ra, các Phó Thủ tướng Chính phủ: Vũ Đức Đam, Lê Minh Khái, Lê Văn Thành; Bộ trưởng các Bộ: Tài chính, Giao thông vận tải, Xây dựng, NN&PTNT, Y tế, LĐ-TB&XH, Nội vụ, TT&TT, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cùng tham gia trả lời chất vấn, giải trình những vấn đề có liên quan.
(HBĐT) - Ngày 11/11, Ban Thường vụ Huyện ủy Lương Sơn tổ chức hội nghị trực tuyến với Đảng ủy các xã, thị trấn về giải pháp giải quyết cán bộ dôi dư sau thực hiện sáp nhập theo Nghị quyết số 830 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và giải quyết cán bộ, công chức dôi dư theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP, ngày 24/4/2019 của Chính phủ.
(HBĐT) - Chiều 11/11, Tỉnh ủy đã tổ chức hội nghị công bố quyết định của Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh uỷ bổ nhiệm Hiệu trưởng trường Chính trị tỉnh. Đồng chí Bùi Đức Hinh, Phó Bí thư TT Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh dự và trao quyết định. Cùng dự có lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy.
(HBĐT) - Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 405-QĐ/TU, ngày 4/11/2021 về việc tặng Huy hiệu Đảng đợt 7/11/2021 cho 341 đảng viên. Cụ thể: Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng cho 15 đảng viên; Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng cho 64 đảng viên; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng cho 21 đảng viên; Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng cho 28 đảng viên; Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng cho 132 đảng viên; Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng cho 81 đảng viên.
Ngày 28/7/2021, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 22-QĐ/TW về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng (gọi tắt là Quy định 22) thay thế Quy định số 30-QĐ/TW, ngày 26/7/2016 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII thi hành Chương VII, Chương VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. Quy định 22 có nhiều điểm mới, thể hiện sự phát triển về lý luận, đồng thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.