Bộ đội lên chốt.
(Ảnh minh họa)
Viết là để
tri ân
Khoảng 4 giờ
sáng ngày 17-2-1979, mình đang ngủ trong "nhà bán âm” thì nghe tiếng ì ùm xa
xa. Anh T nằm trên cái sạp tre bên cạnh thò đầu sang hỏi: "Năm nay sấm sớm mày
nhỉ?”. Mình chỉ trả lời ậm ừ rồi định ngủ tiếp. Vài phút sau thì tất cả rung bần
bật. Pháo của từ bên kia biên gới chuyển làn, bắn gần đến chỗ đơn vị mình. Thế
là báo động, thế là xách súng ra giao thông hào. Từ hôm đó, bắt đầu mấy tháng
lúc nào cũng đủ loại tiếng nổ đinh tai nhức óc, đất rơi rào rào, hầu như ít tắm
giặt, ăn uống thất thường. Đó là những ngày cánh lính tráng ít quan tâm đến
ngày tháng, chỉ quan tâm tới sáng - trưa - chiều - tối. Chục năm sau anh em tụ
tập ở Hà Nội, mình nhắc lại câu nói năm nào, anh T cười và bảo: "Đời tao từng
nói nhiều câu ngu, nhưng đó là câu ngu nhất!”. Lâu nay, một số người đặt câu hỏi
tại sao khi quân ta lại bị bất ngờ? Là người trong cuộc, mình chẳng thấy bất ngờ.
Nếu bất ngờ thì bọn mình đã chẳng lên trước sáu tháng để chuẩn bị chiến đấu.
Lúc đầu, có lẽ ở nơi này nơi khác vì chờ đợi căng thẳng suốt mấy tháng trời nên
đã sao nhãng, bị động. Ở trong cuộc mới hiểu bên phòng ngự thì không thể chủ động
về thời điểm bị tiến công, điều quan trọng là khi bị tiến công sẽ tổ chức phòng
ngự, chiến đấu như thế nào. Đơn vị mình ở cánh thứ yếu, không bị tập trung tiến
công như bên Đồng Đăng. Tuy nhiên sự khốc liệt cũng không kém. Hồi nhỏ xem
phim, biết về "chiến thuật biển người”, mình thắc mắc tại sao có thể xua đoàn
đoàn lớp lớp người xông lên trước họng súng như vậy? Có ở Lạng Sơn mình mới hiểu
người ta không tiếc mạng người, đoàn đoàn lớp lớp xông lên, đối phương bắn mãi,
hết đạn. Để tiến công các điểm "chốt”, trước hết họ nã pháo như vãi đạn, sau đó
là bạt ngàn lính. Mà xem chừng hồi đó họ cũng khổ. Có lần leo lên điểm "chốt”
nơi quân của họ vừa bị đánh bật ra, mình thấy trên mấy hòn đá kê làm bếp nấu ăn
có cái nồi quân dụng to đang bốc khói, nhìn vào trong thấy toàn sắn khô, bên cạnh
lăn lóc mấy con gà lấy được trong mấy bản.
Anh em trong
đơn vị hy sinh nhiều. Thi thoảng lại nghe tin bạn bè hoặc người mình quen biết
đã hy sinh. Người còn sống vẫn bám trụ kiên cường, đánh lui hết đợt tiến công
này đến cuộc tiến công khác. Cuộc chiến đấu đã biến những anh bộ đội cách đó mới
nửa năm còn tham gia làm cầu Thăng Long, khai thác tre nứa ở đầu nguồn sông Lô,
trồng sắn, dứa ở Phú Thọ,… hai tay vốn quen với cuốc xẻng, dao chặt, dao xây,
nay đã thành lính chiến thực thụ. Trong những ngày ấy, mình từng đi bên những
thi hài đồng đội cuốn trong ni-lông, đặt trên chiếu ngay bên đường, chờ ô tô
chuyển về phía sau mai táng. Khi viết những dòng này, hình ảnh ấy lại hiển hiện
trong đầu mình. Rớt nước mắt nhưng làm sao được, phải xong những ngày trận mạc
mới chu tất được cho anh em, bạn bè.
Mình muốn
dành đôi dòng để tri ân Đại tá ĐD - Sư đoàn trưởng. Sách vở ít nhắc đến ông,
còn nhắc đến chiến công của Sư đoàn mình trên biên giới Lạng Sơn chỉ viết: "đã
chủ động... tổ chức tiến công vào hậu phương của địch,... công binh luồn sâu 20
km vào sau lưng địch đánh sập hai cầu và dùng một bộ phận tinh nhuệ tập kích
sân bay Ninh Minh”. Trên thực tế, đây là một quyết định táo bạo, dũng cảm của Đại
tá ĐD. Ông tổ chức đơn vị phòng ngự chặt chẽ, nhưng có thời cơ là lập tức tổ chức
tiến công vào hậu phương đối phương. Bọn mình tự hào gọi ông là "Lý Thường Kiệt
đời F1”. Không được cùng anh em tiến công, nhưng mình đã được nghe anh em kể thủ
trưởng ĐD chỉ đạo xong nhiệm vụ là rút về ngay, không nấn ná. Hôm anh em về,
mình đến chỗ đường rút quân. Đó là một bãi mìn được công binh dọn dẹp. Cạnh đường
rút quân, hàng chục con bò vướng phải mìn, thịt da tung tóe. Đại tá Đ.D mất lâu
rồi, nhưng mình vẫn không quên ông, vị Đại tá dáng người cao lớn, nói sang sảng,
cười rất to. Ông gần gũi và yêu lính, lính kính trọng và yêu quý ông. Thời đơn
vị còn làm kinh tế, ông xông xáo đi hết nơi này nơi khác để chỉ đạo thi công
các công trình ở Vĩnh Yên, Đông Anh,... làm đường, trồng cây gây rừng. Khi có
chiến tranh, ông lại là vị chỉ huy dũng cảm, mưu trí, quyết đoán. Mấy năm sau
mình gặp ông ở Hà Nội. Thầy trò đàm đạo. Ông tiếc hùi hụi vì ngày đó bày binh bố
trận ở Chi Ma đâu ra đấy, quyết làm một trận ra trò thì bên kia tuyên bố rút
quân. Ông nói với mình: "Pháo, quân dàn trận sẵn sàng mà vẫn phải để họ rút. Đứng
trên núi nhìn xuống tao bực lắm, nhưng không đánh người đang lui quân về nước”.
Hơn nửa năm
trời chẳng có cách nào báo tin về nhà, mà có khi còn quên. Đến tháng 8-1979,
mình mới được tranh thủ qua nhà. Đi bộ, đi nhờ ô-tô gần hai ngày, nửa đêm mình
về đến Hà Nội. Thấy mình gõ cửa, mẹ không tin, không ra mở cửa mà lầm rầm khấn
"sống khôn, chết thiêng”. Mình gõ cửa thật mạnh, rồi hét tướng. Mẹ mới mở cửa.
Hóa ra ở nhà tưởng mình đã hy sinh. Mẹ định ôm lấy mình, nhưng mình không cho,
vì lúc đó từ đầu đến chân mình vẫn dính đầy bụi đất. Còn cha mình thì ngồi ở ghế
nhìn, ánh mắt ông giúp mình hiểu ông đang nghĩ gì. Đã 40 năm trôi qua, mỗi khi
nhớ về những năm tháng ấy, mình nghĩ bọn mình đã sống không có gì phải xấu hổ.
Rồi hiện lên trong đầu là hình ảnh những chiếc xe Zin157 to uỳnh dùng tải
thương, phải giảm xóc bằng cách đổ cát xuống dưới sàn xe, đặt phản gỗ lên trên,
phủ thêm lớp rơm để chuyển chở thương binh về tuyến sau. Hằn in hơn nữa là ánh
mắt đau đớn của những đồng đội mình đầy thương tích. Lại thương chị em nuôi
quân, báo vụ, quân y cùng bọn mình hành quân lên biên giới. Bọn mình là con
trai còn đỡ, chị em cực khổ vô cùng, nhưng hễ gặp nhau là cười. Mình không muốn
mô tả cảnh bom rơi đạn nổ, đánh nhau ra sao, mà sau 40 năm, mình viết về cuộc
chiến ấy để thấy đồng đội, bạn bè, anh em của mình đã vượt qua gian khổ xả thân
vì Tổ quốc như thế nào. Họ là những người Việt Nam chân chính. Họ là những người
con yêu của đất nước này.
Khi cùng anh
em cựu chiến binh Sư đoàn 356 đến thắp nén tâm nhang ở Nghĩa trang liệt sĩ Vị
Xuyên, Đài hương 468 ở Hà Giang, có bạn hỏi: "Anh chiến đấu bên Lạng Sơn, có
chiến đấu ở Hà Giang đâu?”, và mình trả lời: "Hy sinh ở Lạng Sơn hay Hà Giang
thì người nằm đây đều là đồng đội của tôi”. Đến hôm nay, đa số người lính ngã
xuống năm xưa đã yên nghỉ trong các nghĩa trang liệt sĩ, nhưng vẫn còn người vẫn
nằm đâu đó, như ca từ bài hát Về đây đồng đội ơi của nhạc sĩ
Trương Quý Hải tha thiết gọi: "Hãy về đồng đội ơi! Còn nằm khe đá hay thung
sâu”. Nên mình luôn nghĩ, chúng ta và hậu thế cần phải tiếp tục có trách nhiệm
với những người lính ấy.