Hình tượng vò rượu cần được tái hiện trong Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm ngày tái lập tỉnh và Lễ hội văn hóa cồng chiêng tỉnh lần thứ I năm 2011.

Hình tượng vò rượu cần được tái hiện trong Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm ngày tái lập tỉnh và Lễ hội văn hóa cồng chiêng tỉnh lần thứ I năm 2011.

(HBĐT) - Đã từ rất lâu, đối với không ít gia đình người Mường ở Hoà Bình, nhắc đến ngày Tết dường như không thể thiếu hương vị của rượu cần. Được làm từ men say của đại ngàn và gửi gắm vào đó sự khéo léo của người phụ nữ Mường, nên rượu cần luôn có một hương vị thật đặc biệt. Đó là một thức uống tâm linh không thể thiếu trong những ngày Tết. Những người con của đất Mường hôm nay không chỉ gìn giữ mà luôn ấp ủ một ước vọng mang men say lòng hiếu khách ấy đến với bạn bè cả nước.

 

Rượu cần - men say của lòng hiếu khách.

 

Rượu cần có từ bao giờ không ai biết, chỉ biết rằng ngày hè nắng nóng đi làm đồng về không có hớp rượu cần không giải cơn khát, đám cưới không có gánh rượu cần thì cô dâu chưa về nhà chồng và ngày Tết không có vò rượu cần cúng tổ tiên đêm giao thừa thì chưa nên xuân. Về Mường Vang  mảnh đất được coi là đất gốc sản sinh ra thứ rượu đặc sản ấy, vẫn nghe các cụ  truyền nhau câu chuyện rằng: Một ông cụ có hai người con dâu, cụ muốn thử xem ai là người thông minh, đức hạnh. Một hôm cụ bảo: Bố đi ăn uống đã nhiều nhưng chưa được ăn con vật gì mà thịt lại nằm trong xương, cũng chưa được uống loại nước gì chảy ngược cho ngọt ngào ý vị. Các con cố tìm cho bố. Được ăn những thức đó bố mới khỏe ra được.

 

Cô dâu cả nghĩ mãi không hiểu là thức ăn, thức uống gì, cô dâu thứ hai cũng bí hỏi chỗ này, chỗ khác cũng không ai biết thức ăn ấy ra sao. Chị buồn rầu ra suối ngồi nghĩ. Bỗng chị nhìn thấy con ốc bên bờ suối. Phải rồi! con ốc, ruột trong mềm, vỏ ngoài cứng thế chẳng phải thịt nằm trong xương sao? Bên bờ suối lại có ai đã cắm một cái vòi chuyền cho nước chảy ngược lên máng. Muốn nước chảy ngược cũng phải làm như vậy. Chị liền bắt một mớ ốc về nấu canh, múc một bầu nước vót cần cắm vào bầu. Cứ để nước lã như thế thì chẳng có mùi vị gì, chị bỏ vào bầu vài nắm lá thuốc trong rừng. Đưa về nhà thì ông cụ đang đi vắng, chị giấu các thứ đã chuẩn bị để chờ bố về đưa nộp.

 

     

Uống rượu cần - một nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu đối với đồng bào dân tộc Mường mỗi dịp Tết đến xuân về.

 

Đúng lúc đó, người dâu cả đang nghĩ chưa ra cách, thấy em giấu thứ gì thì bực liền lén bỏ vào bầu nước một nắm bã trấu và tấm vụn. Không ngờ như thế lại làm cho bình nước thêm chất - lá, trấu, tấm quện lại lên men hóa thành một thức rượu ngọt. ông bố ăn canh ốc rồi cầm cần hút. Đúng là nước thân thương chảy ngược và canh thịt nằm trong xương. ông cụ khen nức nở, giao cả cơ nghiệp cho cô em. Nguồn gốc xa xôi của bình rượu cần có từ đó.

 

Phải chăng cũng chính vì bắt nguồn từ sự thử thách trí thông minh, độ khéo léo của người phụ nữ mà làm ra rượu cần chỉ có thể là bàn tay khéo léo của người phụ nữ Mường. Mế Quách Thị Thu ở xã Nhân Nghĩa (Lạc Sơn) cho biết: Để làm nên hương vị của rượu cần nhất thiết phải có men lá được làm từ rễ và lá của một số loại cây rừng. Nhưng có đủ vị lá rồi, muốn men thơm ngọt hay không lại phải phụ thuộc vào độ khéo, độ tinh của người phụ nữ trong cách làm men. Thông thường khi lấy đủ các vị lá cây, người ta đem giã nhỏ rồi sàng cho thật kỹ sau đó lấy bột lá đem trộn với nước gừng và nặn lại thành bánh men. Men chỉ được để từ 3-5 ngày là phải nổi hết mộng trắng, nếu như mộng men lên sớm quá, muộn quá đều không đạt được vị ngon thơm tuyệt đối. Khi có men, gạo nếp được đồ chín, tãi ra mẹt để cho nguội rồi trộn men theo một tỷ lệ nhất định. Sau đó rắc thêm trấu, trộn đều lên. Bà Thu lí giải: Phải trộn thêm trấu vào để cơm rượu thoáng, tơi đều, khi ủ dễ lên men và đặc biệt khi uống, cơm rượu sẽ không bít lỗ cần hút. Sau đó cho cơm rượu vào vò, lấy lá ổi bịt kín miệng vò rồi đem để nơi thoáng mát trong nhà. Đến hai ba tháng sau đem ra uống. Có một điều đặc biệt là rượu cần càng để lâu uống càng ngon, càng quý.

 

Nếu như công thức được làm từ men say của đại ngàn trộn lẫn với gạo nếp thơm và gửi gắm trong đó cả sự khéo léo của người phụ nữ Mường, thì thưởng thức rượu cần lại là cả một câu chuyện về lòng hiếu khách. Già Bùi Văn Chửm ở xã Nhân Nghĩa (Lạc Sơn) kể: Rượu cần thường được thưởng thức vào ngày mùng một Tết đầu năm khi con cháu, anh em quây quần đoàn tụ nhất. Bắt đầu uống, “Chú trám cầm sừng trâu rót nước vào bình rượu để uống, uống bao nhiêu trâu rót bấy nhiêu sừng.  Già Chửm lý giải rằng: Trong văn hoá của người Mường, con trâu rất đỗi thân quen đồng thời cũng là biểu tượng của sự no đủ, ấm cúng. Uống rượu cần sừng trâu để mong cho cả chủ lẫn khách có một năm làm ăn thuận lợi, có chín trâu, mười bò, cấy hái đầy đồng. Vào tiệc uống rượu cũng là lúc nam thanh, nữ tú cất tiếng "rằng thường" chúc mừng gia chủ và kể về những câu chuyện của đất Mường.

 

Để thương hiệu rượu cần vươn xa

 

Không còn giữ được nét nguyên sơ trong văn hóa xưa, nhưng nhiều hộ gia đình ở Hòa Bình vẫn giữ cho mình đặc sản của cha ông và khát khao đưa loại đặc sản đó đến với bạn bè bốn phương và niềm vui đã đến với những con người đã tâm huyết với hương rượu cần. Trong những ngày cuối năm 2011, tin vui đã đến với những người tâm huyết với đặc sản rượu cần khi, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học công nghệ) đã trao giấy chứng nhận nhãn hiệu Tập thể rượu cần đặc sản Hòa Bình cho Hội sản xuất và kinh doanh rượu cần tỉnh. Theo đó, Cục Sở hữu trí tuệ bảo hộ nhãn hiệu HB rượu cần đặc sản tỉnh Hòa Bình cho Hội sản xuất và kinh doanh rượu cần tỉnh Hòa Bình...

 

      

Vò rượu cần trong mâm cỗ ngày xuân của người Mường Động (Kim Bôi) tại Hội trại văn hóa ẩm thực năm 2011.

 

Ông Nguyễn Văn Quỳnh, Chủ tịch Hội SX-KD rượu cần cho biết: Hiện nay, tại 3 huyện: Lương Sơn, Tân Lạc, Kỳ Sơn và TPHB đều đã thành lập được các chi hội SX-KD rượu cần. Với việc thành lập Hiệp hội và thương hiệu rượu cần đặc sản Hòa Bình, chúng tôi đã ít nhiều bảo vệ được đặc sản quê mình. Tuy nhiên, thành lập được Hiệp hội, xây dựng được thương hiệu cũng đặt ra cho mỗi thành viên chúng tôi sự nỗ lực, sự trăn trở để làm sao thực sự phát huy được thương hiệu đặc sản quê nhà. Có lẽ cũng chính vì vậy mà  vào những ngày cuối năm cũng là ngày bận rộn của các chi hội sản xuất rượu cần. Không chỉ tất bật với những mẻ rượu Tết, các hội viên trong Hiệp hội cũng thường xuyên đến với nhau, cùng ngồi lại và câu chuyện của họ bao giờ cũng xoay quanh hương rượu cần. Tâm huyết của những người con đất Mường này là làm sao bảo tồn được đặc sản, nét văn hóa ẩm thực độc đáo của cha ông. ông Quỳnh tâm sự: Tất cả các thành viên trong Hội đều cam kết giữ đúng hương vị của rượu cần. Sang năm, Hiệp hội sẽ trình UBND tỉnh xin tự sản xuất vỏ bình rượu để có thể giảm được giá thành và giữ được bản sắc của mình. Bà Bùi Thị Huệ ở xã Tân Lập (Lạc Sơn) người đã nhiều năm gắn bó với rượu cần lại có một suy nghĩ đơn giản: Rượu cần là một thức uống rất lạ, nó chứa đựng trong đó những gì tinh túy nhất của đại ngàn, nhờ bàn tay khéo léo tình cảm, lòng hiếu khác của người phụ nữ Mường mà trở nên ngọt ngào, say đắm. Vì vậy hãy gìn giữ rượu cần bằng tất cả tấm lòng mình, rượu cần sẽ có được vị ngọt riêng của nó.

 

Có lẽ cũng tin vào triết lý ấy mà rất nhiều người con của đất Mường vẫn âm thầm gìn giữ cho mình nét văn hóa cổ truyền của dân tộc, đó là uống rượu cần ngày Tết. Và mỗi một tiệc rượu như thế đã thực sự trở thành những hoạt động văn hóa đặc sắc để mỗi người như gần gũi nhau hơn, ấp ủ nhiều hơn những ước vọng tốt đẹp cho một năm mới.

 

 

 

                                                                     Đinh Hòa

 

Các tin khác

Nghệ nhân Đinh Kiều Dung (người đi đầu) cùng các diễn viên, nghệ nhân Kim Bôi tại Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm tái lập tỉnh và Lễ hội văn hóa cồng chiêng tỉnh Hòa Bình lần thứ I.
(Ảnh minh họa)
Các
Tết của người Mông được ví như một cuộc triển lãm văn hóa với những sắc thái, những mảng màu đan xen một cách độc đáo và cuốn hút.

Khúc hát ở thung lũng Hang Kia (kỳ 2)

(HBĐT) - Có một điều kỳ lạ mà chưa có một ai lý giải nổi tại sao ở trên đỉnh ngọn núi cao nhất của xã Hang Kia từ bao đời nay vẫn tồn tại một hồ nước tinh khiết, mát lành, trong khi đó, ngay dưới chân núi luôn phải đối mặt với những “mùa khát” dai dẳng. Nhưng kỳ lạ hơn khi cuộc sống ở Thung Mài lại không có ma túy. Dẫu cho nơi đây chỉ cách con đường thẩm lậu ma túy lớn và phức tạp nhất cả nước, biên giới Việt - Lào chỉ 12 km tính theo đường chim bay.

Khúc hát ở thung lũng Hang Kia (kỳ 1)

(HBĐT) - Đã từng được nghe nhiều những giai điệu khèn Mông tình tứ nhưng chưa khi nào chúng tôi thấy điệu khèn lại man lên cái giai điệu da diết, chân tình và đầm ấm như khi được nghe chính đôi môi Khà A Lau, Bí thư Đảng ủy xã Hang Kia (Mai Châu) cất lên. Giai điệu ấy như tan vào sương, hòa cùng gió nhẹ lướt trên những cánh đào bung nở trong nắng sớm. Như một sự bừng tỉnh của miền sơn cước trong nắng mai.

Nâng cao mức sống người dân vùng hồ sông Đà

(HBĐT) - Để bù đắp những hy sinh nhà cửa, ruộng vườn của người dân vùng hồ sông Đà vì dòng điện của Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã triển khai Dự án ổn định dân cư phát triển KT-XH các xã vùng chuyển dân lòng hồ sông Đà đã kết thúc 2 giai đoạn. Hiện nay đang tiếp tục triển khai giai đoạn 3, hướng tới mục tiêu giải quyết căn bản những khó khăn, phát triển KT-XH các xã vùng chuyển dân bền vững, nâng cao mức sống người dân vùng hồ.

Cao Phong - Mùa cam “trả vàng”

(HBĐT) - Cao Phong vào vụ cam mới ngọt ngào đầy ắp niềm vui. Suốt dọc đường thị trấn nhuộm vàng sắc cam. Nắng ấm đầu đông chan hòa, ấm áp đem lại những vườn cam trĩu quả vàng xuộm. Thương lái mua hàng rộn rã. Vùng cam hàng hóa đang hình thành. Chất lượng, uy tín, thương hiệu cam Cao Phong được nâng lên và khẳng định vị trí hơn trên thị trường. Cam vàng nặng trĩu được mùa, được giá đang trả nghĩa mồ hôi, công sức người vun trồng.

Khát khao tạo dựng thương hiệu cho quê hương

(HBĐT) - Một nắm ngô từ bàn tay người thanh niên được tung lên, chưa kịp chạm mặt đất, hàng ngàn con gà lông óng vàng, mượt mà từ đâu lao đến quây lấy chủ. Phía bên có đến cả trăm chú lợn rừng lai với lợn bản địa mũm mĩm to có, nhỏ có từ trong các lùm cây, trên những vách đá nhọn hoắt lao về bu lấy hàng rào dây thép cạnh trại gà... Đó là khung cảnh án tượng khi chúng tôi đến thăm gia đình anh Khương Đức Thụ ở xóm Sèo, xã Cao Sơn (Đà Bắc).

Theo dấu chân những người làm chiếu bóng

(HBĐT) - Trong màn đêm dần buông, dọc những đường mòn bên sườn núi, ánh đèn pin soi đường cho những đôi chân quanh năm quẩn quanh với ruộng vườn. Từ các ngả đường, người dân xóm Cạn 2, xã Xuân Phong (Cao Phong) đổ về nhà văn hóa, nơi những người làm chiếu bóng thuộc Trung tâm Điện ảnh Băng hình tỉnh chiếu phim phục vụ.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục