Cán bộ, kỹ sư Công ty Thủy điện Hòa Bình thường xuyên kiểm tra, bảo dưỡng, vận hành tổ máy phát điện an toàn. Ảnh: P.V
(HBĐT) - Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, năm 1960, Đảng ta xác định, cùng một lúc, cách mạng Việt Nam phải tiến hành song song hai nhiệm vụ chiến lược: giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta ý thức rõ: Muốn xây dựng CNXH thì “Điện khí hóa” phải đi trước một bước. Để tận dụng điều kiện tự nhiên sẵn có của đất nước, kinh nghiệm KH -KT của Liên Xô thì xây dựng thủy điện là phương án kinh tế có khả thi nhất. Chính vì lẽ đó Đảng, Nhà nước đã quan tâm tiến hành điều tra, khảo sát, lập luận chứng kinh tế kỹ thuật tạo tiền để xây dựng công trình.
Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Thủy lợi khảo sát, nghiên cứu địa chất toàn bộ lưu vực sông Đà và lựa chọn xây dựng công trình đầu mối thủy lực đầu tiên tại đoạn sông Đà chảy qua (TPHB hiện nay) trong sơ đồ bậc thang thủy điện trên sông Đà.
Hiện thực hóa chủ trương đó, vào đúng dịp Quốc khánh 2/9/1971, trên dòng sông Đà, chiếc máy khoan khảo sát địa chất của Liên Xô lắp đặt tại hố khoan số 1 ở lòng sông tuyến đập bắt đầu những mũi khoan đầu tiên, đặt dấu ấn khởi đầu cho ý tưởng chinh phục dòng sông Đà. Năm 1978, Chính phủ phê duyệt Tổng quan sông Đà, quyết định lựa chọn tuyến Hòa Bình dưới mực nước dâng 115 m làm bậc thang 1 xây dựng trước, phê duyệt thiết kế kỹ thuật công trình Thủy điện Hòa Bình, chọn nhà máy thủy điện ngầm. Tháng 7/1979, luận chứng cơ sở kinh tế - kỹ thuật xây dựng công trình Thủy điện Hòa Bình do Liên Xô lập được phê duyệt.
Đúng 10 giờ ngày 6/11/1979, đồng chí Lê Thanh Nghị, UV Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ phát lệnh nổ mìn, khởi công xây dựng công trình Thủy điện Hòa Bình, sự kiện đặc biệt quan trọng, cả đất nước dồn lực cho công trường Thủy điện Hòa Bình.
Công trình Thủy điện Hòa Bình có công suất 1.920 MW, lượng điện bình quân 9, 5 tỷ/KWh, được coi là công trình thế kỷ của đất nước, lớn bậc nhất Đông Nam Á, là nguồn cấp điện chủ lực, đóng vai trò điều tiết công suất, điện áp và tần số hiệu quả nhất của hệ thống điện Việt Nam thời đó. Công trình thủy điện Hòa Bình được khởi công và triển khai trong đúng thời điểm đất nước vừa kết thúc chiến tranh gặp muôn vàn khó khăn thiếu thốn. Mặc khác điều kiện thi công phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật với sức ép tiến độ đặc biệt cao.
Được Đảng và Nhà nước xác định có vị trí ưu tiên số một, chỉ đạo các bộ, ngành T.Ư, địa phương tạo điều kiện tốt nhất về nguồn vốn, nhân lực, vật lực tập trung thi công công trình. Hưởng ứng chủ trương của Đảng và Nhà nước, vì dòng điện của Tổ quốc, hàng chục vạn gia đình các dân tộc trong tỉnh đã hy sinh tài sản, ruộng vườn, vén nhà theo con nước dâng để phục vụ nhiệm vụ thi công công trình Thủy điện Hòa Bình.
Hàng vạn thanh niên từ các vùng nông thôn miền Bắc xung phong làm việc tại công trường Thủy điện - Công trường Thanh niên Cộng sản. Trên 500 kỹ sư và trung cấp kỹ thuật vừa tốt nghiệp, 800 chuyên gia là công trình sư, kỹ sư và công nhân lành nghề của Liên Xô được điều động đến công trường. Cán bộ, chiến sỹ, kỹ sư và công nhân lao động cùng chuyên gia nước bạn không quản khó khăn, gian khổ lao động quê mình ba ca, bốn kíp, tất cả “Vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc”, tiến độ thi công không lúc nào bị gián đoạn, những điển hình tiến tiến, những tấm gương tiêu biểu về sự sáng tạo, tinh thần lao động quên mình lan tỏa, tạo nên khí thế ở mỗi mặt trận thi công, chạy đua đào hầm, chạy đua ngăn sông và chống lũ, chạy đua tiến độ phát điện... Môi trường làm việc trên công trường cực kỳ khắc nghiệt. Một chút sơ sẩy, một chút lơ là có thể gây nên hậu quả khôn lường. Lòng quyết tâm cao độ, nghị lực, sự sáng tạo, đồng lòng nhất trí đã làm nên những kỳ tích, biểu tượng của tinh thần, khí thế lao động miệt mài, hăng say, hoàn thành vượt mức bảo đảm chất lượng các mục tiêu cải tạo, chinh phục dòng sông Đà. Trên công trường Thủy điện Hòa Bình nhiều kỷ lục được xác lập. Ngày 12/1/1983, thực hiện ngăn sông Đà đợt 1, ngày 9/1/1986 hoàn thành thi công các công trình đầu mối ngăn sông Đà đợt 2 - đỉnh cao là những nỗ lực thực hiện thắng lợi khẩu hiệu “Cao độ 81 hay là chết” - Cuộc ngăn sông lịch sử chạy đua với nước lũ lớn nhất thế kỷ XX.
Cuối năm 1988, sau 9 năm ròng rã kể từ ngày khởi công, tổ máy số 1 phát điện, Nhà máy Thủy điện Hòa Bình chính thức đi vào hoạt động, cả công trường hân hoan, xúc động, ngập tràn cờ hoa hạnh phúc. Sau đó các tổ máy lần lượt đưa vào phát điện theo đúng kế hoạch đề ra. Ngày 20/12/1994, Nhà máy Thủy điện chính thức khánh thành - một mốc son lịch sử về sự trưởng thành vượt bậc của ngành năng lượng Việt
Lê Chung
(HBĐT) - Những năm gần đây, nhu cầu chăm sóc răng, miệng của người dân tăng. Các phòng khám răng, nha khoa thẩm mỹ trên địa bàn tỉnh cũng vì thế mà tăng đáng kể. Bên cạnh những phòng khám răng được cấp giấy chứng nhận hoạt động vẫn còn nhiều phòng khám hoạt động “chui”. Đằng sau những biển hiệu bắt mắt, lời quảng cáo hoa mỹ là hàng loạt những vấn đề cần chấn chỉnh.
(HBĐT) - 15 năm xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, trong chừng ấy thời gian, “Công trường thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh” luôn ầm vang tiếng thi công chạy đua không ngừng với tiến độ. Một khối lượng công việc khổng lồ đã được hàng chục ngàn người “lính” công trường hoàn thành xuất sắc sau hơn 4.400 ngày đêm quên ăn, quên ngủ. Họ - những công nhân sông Đà khi xưa đã làm việc hết mình giống như những người lính đã quên mình chiến đấu vì màu cờ của Tổ quốc. Gặp lại họ ngày hôm nay vẫn thấy rạo rực trong trái tim họ niềm tự hào khi nhớ về quãng thời gian đã cống hiến tuổi thanh xuân cho một đại công trình mang tầm vóc thế kỷ: công trình thủy điện Hòa Bình.
(HBĐT) - Trong hành trình xây dựng và phát triển thương hiệu, sản phẩm cam Cao Phong ngày càng khẳng định được lợi thế nổi bật so với các loại đặc sản khác của địa phương. Đến nay, cam Cao Phong là sản phẩm đầu tiên và duy nhất của tỉnh đã đăng ký bảo hộ thành công chỉ dẫn địa lý (CDĐL). Kết quả này mở ra nhiều cơ hội để cam Cao Phong trở thành một thương hiệu mạnh, có sức vươn bền bỉ ra thị trường trong và ngoài nước.
(HBĐT) - Cùng với thời gian, cây cam đã thể hiện được sức sống mãnh liệt trên mảnh đất Cao Phong ngọt lành. Sự gắn kết giữa cây và đất, giờ đây đã mật thiết đến độ khi nhắc đến mảnh đất Cao Phong không thể không nhắc đến sản vật đặc trưng nhất của nơi này: cây cam với vị ngọt thơm đặc biệt được kết tinh từ đất - nước - nắng - gió Cao Phong.
(HBĐT) - Lâu rồi chúng tôi mới lên thăm lại Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên (BQL KBTTN) Phu Canh. Trong cái nắng hanh hao cuối thu, những cánh rừng vẫn xanh thẫm, ôm ấp các bản làng của đồng bào Dao, Tày, Mường, che chở cho những ruộng bậc thang đang vào vụ thu hoạch. Anh Đào Hữu Lợi, Trưởng BQL đón chúng tôi với nụ cười rất tươi: Các anh lên thật đúng dịp. Những cánh rừng Phu Canh đang hồi sinh.
Bài 2: Cần sớm được nâng tầm để phát huy giá trị