(HBĐT) - Về Quốc hội (Chương V): Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của QH cơ bản được giữ như quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Cụ thể: sửa đổi, bổ sung Điều 83 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt
Tiếp tục quy định QH quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách T.Ư và ngân sách địa phương; quyết định dự toán NSNN và phân bổ ngân sách T.Ư, phê chuẩn quyết toán NSNN; bổ sung thẩm quyền QH quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ (khoản 4, Điều 70).
Bổ sung thẩm quyền của QH trong việc phê chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND Tối cao (khoản 7, Điều 70) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình TAND, làm rõ hơn vai trò của QH trong mối quan hệ với các cơ quan thực hành quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị thế của thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp. Bổ sung thẩm quyền của QH trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng Bầu cử quốc gia, kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do QH thành lập (các khoản 2,6,7,9 Điều 70). Tiếp tục quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn (khoản 8, Điều 70). Quy định rõ hơn và hợp lý hơn các loại điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ của QH (khoản 14, Điều 70); đó là những điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của QH.
Hiến định thẩm quyền của QH trong việc thành lập UB lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định được quy định tại Luật Hoạt động giám sát của QH và Luật Tổ chức QH (Điều 78). Đồng thời, bổ sung quy định giao QH quyết định việc thành lập, giải thể UB của QH (Điều 76).
(Còn nữa)
PBĐ-TL (TH)
(HBĐT) - Về kinh tế: đối với các hình thức sở hữu, Hiến pháp ghi nhận và tôn trọng đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân cả về tư liệu sản xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Thừa kế và phát triển quy định về sở hữu toàn dân trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53).
(HBĐT) - Về KT-XH, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III): Chương III của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở gộp Chương II -Chế độ kinh tế và Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến pháp năm 1992 nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường.
(HBĐT) - Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II): Tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
(HBĐT) - Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II): Chương II của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) thành Chương: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” và đặt trang trọng sau Chương I - Chế độ chính trị. Đồng thời chuyển các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các Chương khác của Hiến pháp năm 1992 về Chương này. Sự thay đổi về tên gọi và bố cục này nhằm khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
(HBĐT) - Về chế độ chính trị (Chương I): Hiến pháp tiếp tục khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5). Đây cũng là điểm mới quan trọng so với Hiến pháp năm 1992.
(HBĐT) - Về chế độ chính trị (Chương I): Chương I của Hiến pháp được xây dựng trên cơ sở sửa đổi tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 (nước CHXHCN Việt Nam - Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm 1992 (Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh) vì đây là những nội dung gắn liền với chế độ chính trị của quốc gia.