Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu khai mạc Hội nghị. Thưa
các đồng chí Trung ương,
Thưa
các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện
Chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp
Hội nghị lần thứ sáu để thảo luận, cho ý kiến về: Tình hình kinh tế - xã hội
và tài chính - ngân sách năm 2017, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và dự toán tài chính - ngân sách năm 2018; Tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới;
Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; và tiến hành một số công việc quan trọng khác.
Thay mặt
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương, các đại biểu khách mời đã về dự Hội nghị và xin gửi tới
các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa
các đồng chí,
Theo Quy
chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi tài liệu để các đồng chí
nghiên cứu trước và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại Hội nghị. Sau đây, tôi xin
phát biểu gợi mở, lưu ý, nhấn mạnh thêm một số vấn đề, mong được các đồng chí
quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.
1-
Về tình hình kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách năm 2017, dự kiến kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán tài chính - ngân sách năm 2018
Đây là
công việc thường kỳ hằng năm tại các hội nghị cuối năm của Ban Chấp hành
Trung ương nhằm rà soát lại tình hình kinh tế - xã hội, tài chính - ngân sách
của đất nước, thấy rõ những ưu điểm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của
Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cả hệ thống chính trị; từ đó phát huy mặt
tốt, kịp thời điều chỉnh, uốn nắn những mặt chưa tốt, góp phần quan trọng
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng năm
và 5 năm đã đề ra. Do đó, nó có ý nghĩa rất thiết thực.
Đề nghị
các đồng chí nghiên cứu kỹ Tờ trình, Báo cáo của Ban cán sự đảng Chính phủ và
xuất phát từ tình hình thực tế trong nước, quốc tế cũng như các ngành, lĩnh
vực, địa bàn nơi công tác để thảo luận, phân tích, đánh giá khách quan, toàn
diện tình hình chín tháng đầu năm, dự báo đến hết năm. Chỉ rõ những kết quả,
thành tích nổi bật đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, nhất là
những yếu tố tích cực mới xuất hiện, những vấn đề nổi cộm mới phát sinh. Chú
ý đối chiếu với những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội
XII và các nghị quyết của Trung ương về phát triển kinh tế - xã hội nhanh và
bền vững; thực hiện ba đột phá chiến lược; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh
tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế... Đặc
biệt là, cần chỉ rõ nguyên nhân vì sao một số việc chưa làm được, một số chỉ
tiêu đạt thấp hoặc chưa đạt trong sáu tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước,
mặc dù tình hình trong nước và quốc tế năm 2017 nhìn chung thuận lợi hơn so
với năm 2016.
Trên cơ
sở đó, dự báo các khả năng có thể xảy ra trong thời gian tới, lường trước
những khó khăn, thách thức cần phải nỗ lực vượt qua, đặc biệt là những khó khăn,
thách thức trong việc khắc phục những hạn chế, yếu kém vốn có, tồn đọng từ
lâu của nền kinh tế; những rủi ro về tài chính - tiền tệ, nhất là khi nợ
công, nợ xấu còn cao, nhiều doanh nghiệp nhà nước thua lỗ. Xác định rõ các
mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản, quan trọng nhất cho năm 2018; đề ra các chính
sách, biện pháp có tính khả thi cao, nhất là các chính sách, biện pháp đột
phá để đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại ngân
sách nhà nước, kiểm soát nợ công; cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng
gắn với xử lý nợ xấu. Đẩy mạnh tái cấu trúc đầu tư công, các doanh nghiệp nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp công lập. Nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh để huy động và sử dụng có hiệu quả hơn các
nguồn lực, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi
trường.
2 -
Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
Từ trước
đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi
người dân và của toàn xã hội; chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân
là công tác đặc biệt quan trọng, liên quan đến mọi người, mọi nhà và được cả
xã hội quan tâm, có ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện
bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta. Ngày 14-1-1993,
Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Năm 2005, Bộ Chính
trị khóa IX cũng ra Nghị quyết về vấn đề này. Từ đó đến nay, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ban hành tám chỉ thị, ba kết luận, bốn thông báo và thường xuyên
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc thực hiện. Dưới sự lãnh đạo của Trung
ương, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ thầy thuốc, cán bộ y
tế cả nước đã nỗ lực phấn đấu, triển khai thực hiện nhiều chính sách, biện
pháp tăng cường bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân, đạt được nhiều
kết quả quan trọng. Nước ta được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá là điểm
sáng về thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ trong lĩnh vực bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe.
Tuy
nhiên, trước yêu cầu mới trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân cũng bộc lộ không ít yếu
kém, khuyết điểm, để xảy ra một số sự việc, sự cố gây bức xúc xã hội. Để phát
huy những kết quả, thành tích đã đạt được, làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, Ban Chấp hành
Trung ương cần bàn và ra nghị quyết về vấn đề này. Trên cơ sở các Báo cáo, Đề
án và Tờ trình của Bộ Chính trị, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế, đề
nghị Trung ương thảo luận, đi sâu phân tích, đi đến thống nhất cao nhận định
về những kết quả, ưu điểm, thành tích cũng như về những hạn chế, yếu kém và
bài học kinh nghiệm trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân
dân trong thời gian qua; chỉ ra những thời cơ, thuận lợi cần kịp thời nắm bắt
và những khó khăn, thách thức cần nỗ lực vượt qua trong thời gian tới. Từ đó
xác định quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần nắm
vững và thực hiện trong giai đoạn mới.
Về thời
cơ, thuận lợi, phải chăng đó là những kết quả, thành tích đã đạt được trong
lĩnh vực này cũng như những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới;
sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ y tế dưới tác động của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế?... Về khó
khăn, thách thức, phải chăng cần kể đến những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực
y tế và các lĩnh vực có liên quan; sự thay đổi nhanh chóng về điều kiện sống,
lối sống, môi trường sống và làm việc, các loại dịch bệnh; nguồn lực của Nhà
nước còn hạn hẹp trong khi việc huy động các nguồn lực xã hội còn nhiều khó
khăn?... Về bài học kinh nghiệm, phải chăng cần nhấn mạnh, khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự hưởng ứng tham gia tích cực
của cả hệ thống chính trị và toàn dân; vai trò chủ đạo của các bệnh viện, cơ
sở y tế công lập; ý nghĩa, tầm quan trọng của việc vận dụng đúng đắn cơ chế
thị trường để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho bảo
vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân gắn với bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa và tính ưu việt của chế độ ta, như chúng ta đã phát triển được hệ
thống y tế cơ sở, quản lý, chăm sóc sức khỏe nhân dân ở từng xã, phường, cơ
quan, đơn vị trong những năm tháng đất nước còn khó khăn hơn hiện nay rất
nhiều. Về quan điểm, định hướng, phải chăng cần nhấn mạnh kết hợp tốt hơn nữa
giữa phòng bệnh và chữa bệnh; giữa chăm sóc và bảo vệ; giữa đông y và tây y;
giữa y tế cơ sở với y tế các tuyến trên; giữa đầu tư ngân sách nhà nước với
tăng cường tự chủ, xã hội hoá; giữa y tế toàn dân với đào tạo các bác sĩ,
chuyên gia giỏi, đầu ngành,...?
3 -
Về công tác dân số trong tình hình mới
Đây là
vấn đề rất lớn và khó, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến việc bảo
vệ, phát triển giống nòi, quốc gia, dân tộc. Trong 25 năm qua, cả nước ta đã
kiên trì, kiên quyết thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình,
mỗi cặp vợ chồng chỉ có hai con theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa
VII. Bên cạnh những kết quả, thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít những hạn
chế, yếu kém, phát sinh những vấn đề mới cần kịp thời có định hướng xử lý.
Thí dụ: Mức sinh giữa các vùng còn có sự chênh lệch đáng kể. Tình trạng mất
cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng
lan rộng. Nước ta đang bước vào thời kỳ "già hóa dân số", đứng
trước nguy cơ "chưa giàu đã già", bỏ lỡ cơ hội của "thời kỳ dân
số vàng". Quản lý dân số, quản lý di cư, nhất là di cư tự do, còn nhiều
bất cập. Chất lượng dân số, nhất là chiều cao và thể lực chậm được cải thiện.
Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn xảy ra ở một số vùng dân tộc
ít người; tỷ lệ người bị khuyết tật trong dân số còn cao...
Trên cơ
sở thống nhất nhận định về tình hình, xu thế phát triển trong thời gian tới,
đề nghị Trung ương đi sâu phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
trên đây, rút ra những bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành
công của công tác dân số ở nước ta và tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Từ
đó, đề ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để nắm
bắt thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, làm tốt hơn nữa công
tác dân số trong trong tình hình mới. Phải chăng trong thời gian tới nước ta
cần chuyển trọng tâm từ chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình sang dân
số và phát triển? Nội hàm cụ thể của các khái niệm đó là gì? Ý nghĩa
thực tiễn của nó ra sao? Tập trung phân tích những căn cứ và sự cần thiết, đúng
đắn của việc chuyển trọng tâm từ giảm tăng dân số thông qua
việc thực hiện triệt để, đồng loạt chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ có hai con
sang kiểm soát quy mô, nâng cao chất lượng dân số bằng chính
sách duy trì mức sinh thay thế. Chú ý tính khả thi, phù hợp của mục tiêu lựa
chọn và các chính sách, biện pháp đã đề ra. Đặc biệt là phương án lựa chọn về
quy mô dân số và các chính sách bảo đảm giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn
đề về dân số như: Duy trì mức sinh thay thế; đưa tỷ lệ giới tính khi sinh về mức
cân bằng tự nhiên; tận dụng tốt nhất điều kiện cơ cấu dân số vàng; thích ứng
với già hóa dân số; quản lý tốt di cư, nhất là di cư tự do; nâng cao chất
lượng dân số...
4 -
Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Tờ trình
và Báo cáo của Bộ Chính trị đã nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự cần thiết
và phạm vi của Đề án "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả".
Bộ Chính trị nhận thấy, đây là vấn đề rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất
khó, rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó liên quan đến những vấn đề lý luận cơ
bản về phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền
làm chủ của nhân dân; về đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh
tế; về quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; liên quan đến quyền lợi,
tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động...
Trong
những năm qua, Đảng ta đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị. Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm
vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân
định, điều chỉnh hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân và đã đạt được những kết quả quan
trọng, góp phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi
mới.
Tuy
nhiên, cho đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, kém hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ
chức còn chồng chéo; cơ cấu bên trong chưa hợp lý; tổ chức bộ máy của khối
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp công lập chậm
được đổi mới; tổ chức và biên chế ngày càng phình to; số lượng cấp phó, số
người được hưởng chế độ "hàm" không hợp lý; cơ cấu, chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều bất cập; số lao động phục vụ gián
tiếp quá nhiều trong khi thiếu nhân lực trực tiếp làm chuyên môn nghiệp vụ.
Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước ở các đơn vị sự nghiệp
công và người hoạt động không chuyên trách cấp xã ngày càng nhiều.
Đề nghị
các đồng chí tập trung nghiên cứu, đánh giá khách quan, toàn diện về tình
hình và nguyên nhân, nhất là nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém. Đồng
thời, từ kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý nơi công tác; nghiên cứu, vận dụng các
bài học được rút ra từ tổng kết lý luận, thực tiễn qua 30 năm đổi mới, tập
trung đóng góp nhiều ý kiến xác đáng, bổ sung hoàn thiện quan điểm, mục tiêu
và nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới. Phải chăng cần đặc biệt chú ý bảo
đảm tính đổi mới, tổng thể, hệ thống, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hòa
giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; không nôn nóng từ cực nọ nhảy
sang cực kia; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo,
với tinh giản biên chế và cải cách tiền lương; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa
nhà nước, thị trường và xã hội. Các nhiệm vụ và giải pháp đề ra phải phù hợp,
khả thi, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu
dài, góp phần giải quyết những vấn đề thực tế đang đặt ra đối với tổ chức bộ
máy của toàn hệ thống chính trị cũng như các tổ chức cụ thể của Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là
tổ chức bộ máy bên trong từng cơ quan, đơn vị. Phải chăng những việc nào đã
rõ, đã chín thì kiên quyết làm ngay; việc nào chưa đủ rõ, quá phức tạp, ý
kiến còn khác nhau nhiều thì tích cực nghiên cứu, mạnh dạn cho làm thí điểm
rồi tổng kết, mở rộng dần?...
5 -
Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập
Thời gian
qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quan trọng và tích cực
lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống chính trị tổ chức thực hiện nhiều chủ trương,
chính sách, biện pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
công lập, đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều tồn tại, yếu kém, gây bức xúc xã hội và không ít những khó khăn, thách
thức phải vượt qua, nhất là trong việc tổ chức lại và đổi mới cơ chế, chính
sách nhằm phát huy tốt hơn trí tuệ và sự cống hiến của đông đảo đội ngũ trí
thức, các chuyên gia, nhà khoa học và lao động kỹ thuật chất lượng cao trong
lĩnh vực này, nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của nhân dân; đồng thời góp phần giải quyết vấn đề tổ chức, biên chế, cải
cách chế độ tiền lương của toàn hệ thống chính trị.
Cho đến
nay, chưa kể đến tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh
nghiệp nhà nước, cả nước đã có khoảng 58 nghìn đơn vị sự nghiệp công lập với
2,5 triệu biên chế; giữ vai trò chủ đạo, cung cấp hầu hết dịch vụ sự nghiệp
công, liên quan đến mọi người, mọi nhà và toàn xã hội như: Dịch vụ y tế, giáo
dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hoá, thể dục thể thao... Vì vậy,
việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn hết sức sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp
phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể
hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Đề nghị
Trung ương tập trung phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình,
nguyên nhân và bài học kinh nghiệm. Chú ý phân tích sâu về ý nghĩa, tầm quan
trọng của việc tiếp tục đẩy mạnh đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập cũng
như đổi mới doanh nghiệp nhà nước, cần được tiến hành đồng bộ, quyết liệt
nhưng thận trọng, vững chắc và đặt trong tổng thể tiếp tục đổi mới tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị; sự cần thiết phải đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ
công (xã hội hóa nhưng không thương mại hóa), phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Xác định rõ vai trò
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân; vai
trò, vị trí của các đơn vị sự nghiệp công lập trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và cách mạng công
nghiệp lần thứ 4.
Từ đó đề
ra quan điểm, mục tiêu và định hướng tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tổ chức, nâng
cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công
lập gắn với bảo đảm ổn định chính trị, xã hội nói chung và từng ngành, lĩnh
vực cụ thể nói riêng. Chú ý kế thừa, phát huy những kết quả, thành tựu đã đạt
được; căn cứ vào thực tế và trình độ phát triển của nước ta để rà soát, bổ
sung, hoàn thiện đồng bộ hệ thống các cơ chế, chính sách, có tính khả thi
cao, nhất là các cơ chế, chính sách mới, có tính đột phá.
Thưa
các đồng chí,
Nội dung
chương trình của Hội nghị Trung ương lần này đề cập nhiều vấn đề rộng lớn,
vừa cơ bản vừa cấp bách, liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội hằng năm,
đổi mới phát triển xã hội, đổi mới chính trị đồng bộ với đổi mới phát triển
kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Tất cả đều là những
vấn đề quan trọng, phức tạp và nhạy cảm, có tác động trực tiếp đến đời sống
của nhân dân, đến đông đảo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao
động trong cả nước, được xã hội đặc biệt quan tâm và kỳ vọng.
Đề nghị
các đồng chí phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu,
thảo luận sôi nổi, cho ý kiến để hoàn thiện các báo cáo, đề án, dự thảo các
nghị quyết, kết luận của Trung ương và xem xét, quyết định cùng với một số
vấn đề quan trọng khác vào cuối kỳ họp.
Với tinh
thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
Xin trân
trọng cảm ơn.
|
TheoNhandan