Phát huy 25 năm hợp tác xây dựng
GMS bền vững, hội nhập và thịnh vượng
Chúng tôi, Người đứng đầu các Chính phủ và Trưởng đoàn của Vương
quốc Campuchia, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng
hòa Liên bang Myanma, Vương quốc Thái Lan và Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh GMS lần thứ 6;
Ghi nhận những thành tựu của Chương trình Hợp tác Kinh tế GMS, kỷ
niệm kỷ niệm 25 năm thành lập GMS và khởi đầu một kỷ nguyên phát triển mới tại
tiểu vùng;
Đánh giá cao thành công đã đạt được với vai trò dẫn dắt và cam kết
mạnh mẽ của các nước GMS, thể hiện các nguyên tắc đồng thuận, tôn trọng lẫn
nhau, bình đẳng, cùng tham vấn và phối hợp, đóng góp chung và chia sẻ lợi
ích, và hợp tác cùng có lợi;
Nhận thức được những cơ hội mới và những thách thức mà quá trình
toàn cầu hoá đem lại và tầm quan trọng của các sáng kiến phát triển liên
quan, như Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc về Phát triển bền vững,
Cộng đồng ASEAN và Sáng kiến Vành đai và Con đường. Các sáng kiến này sẽ bổ
trợ và kết hợp với Chương trình GMS, tạo nên các cơ sở mới cho hợp tác toàn cầu,
khu vực và tiểu vùng;
Ghi nhận sự cần thiết phải tiếp tục thu hẹp khoảng cách phát triển
tại mỗi quốc gia và giữa các nước GMS và bảo đảm mọi người dân đều được hưởng
lợi từ sự gia tăng kết nối và phụ thuộc lẫn nhau;
Nhận thức được rằng để hỗ trợ các nước thành viên một cách hiệu
quả, nắm bắt các cơ hội phát triển mới và đáp ứng những thách thức đang nổi
lên, Khung Chiến lược định hướng Chương trình GMS cần được điều chỉnh định kỳ;
Đánh giá cao các Bộ trưởng, các quan chức cao cấp và các bên
liên quan khác đã tích cực rà soát lại tình hình thực hiện Khung Chiến lược,
và xây dựng một kế hoạch hành động và các ưu tiên đầu tư trong 5 năm tới;
Chúng tôi tái khẳng định cam tiếp tục thúc đẩy Chương trình hợp
tác kinh tế GMS và tiếp tục ủng hộ các nguyên tắc cơ bản của khuôn khổ hợp
tác GMS và khuyến khích tất cả các bên liên quan khởi động việc nghiên cứu hướng
đi cho tương lai nhằm phát huy những thành thành công của 25 năm qua và hiện
thực hóa một tiểu vùng bền vững, hội nhập và thịnh vượng.
I. 25 năm thay đổi và các thành tựu của Chương trình GMS
1. Trong bối cảnh chúng ta kỷ niệm dấu mốc quan trọng 25 năm của
GMS, đây là thời điểm phù hợp để cùng suy nghĩ về những chuyển đổi của tiểu
vùng đã đem lại những kết quả thuận lợi chưa từng thấy.
2. Với một vài nền kinh tế kém phát triển vào giai đoạn đầu, GMS
hiện bao gồm những nền kinh tế với mức thu nhập trung bình năng động nhất
châu Á và thế giới. Trong hơn một phần tư thế kỷ, tăng trưởng kinh tế hàng
năm của tiểu vùng đã đạt mức trung bình là 6,3% và mức tăng trưởng bình quân
đầu người là 5%. Thương mại nội khối đã tăng 90 lần. Người dân các nước được
hưởng cuộc sống với chất lượng ngày càng cao và tiểu vùng đang hướng đến sự
phát triển chất lượng cao.
3. Các chính sách, dự án đầu tư và chương trình trao đổi kiến
thức của Chương trình GMS đã đóng góp một cách thiết thực cho sự thay đổi
trên.Vai trò Chương trình GMS thể hiện rõ qua con số 21 tỷ USD đã được huy động
để tài trợ cho các sáng kiến trong khuôn khổ GMS.
4. Kết nối, cạnh tranh và cộng đồng là những
giá trị nền tảng của Chương trình. Chúng tôi đánh giá cao báo cáo về các kết
quả gần đây đã khẳng định sự phù hợp của việc tập trung vào ba nhân tố C (Kết
nối – connectivity, cạnh tranh – competitiveness, cộng đồng – community) nhằm
có được một Chương trình thiết thực, mang tính hành động và chú trọng kết quả.
5. Kết nối hạ tầng cứng với trọng tâm cải tạo
và xây mới cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng đã đạt nhiều thành tựu đáng
ghi nhận, bao gồm các sân bay mới, 80 cây cầu, 10.000 km đường bộ, 500 km đường
sắt, 3.000 km đường dây truyền tải điện và đường dây phân phối, với công suất
lắp đặt là 1570MW. Kể từ HNTĐ GMS 5 vào năm 2014, chúng tôi nhận thấy lĩnh vực
kết nối đã tiến triển nhanh chóng và trên phạm vi rộng, trong đó có việc hoàn
thành Chiến lược ngành Giao thông vận tải GMS 2030.
6. Chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ cách tiếp cận hành lang kinh tế được
thông qua năm 1998 mà đã chuyển đổi mạng lưới giao thông thành hành lang kinh
tế xuyên quốc gia, gắn kết sản xuất, thương mại và cơ sở hạ tầng. Các tuyến
đường loại 2 và đường tỉnh lộ đã giúp mở rộng mạng lưới ba hành lang kinh tế
chính, qua đó góp phần vào sự phát triển bao trùm. Cách tiếp cận này giúp
phát huy nguồn lực hạn chế thông qua việc tập trung vào các lợi thế địa
phương có thể giúp tối đa hóa việc làm và thu nhập dọc theo các hành lang và
cho phép các vùng sâu vùng xa tiếp cận các cơ hội phát triển.
7. Chúng tôi hoan nghênh quyết định mở rộng mạng lưới hành lang
vào năm 2016 nhằm đáp ứng sự phát triển năng động của tiểu vùng. Trong ba năm
qua, Diễn đàn Hành lang kinh tế tiếp tục đóng vai trò ủng hộ, tạo điều kiện
và điều phối, được bổ trợ bởi Diễn đàn Tỉnh trưởng và Tuần lễ Hành lang kinh
tế. Chúng tôi hỗ trợ các diễn đàn này để tăng cường đối thoại chính sách giữa
các cơ quan chính quyền địa phương và giúp xác định hoạt động hợp tác theo dự
án trong các lĩnh vực ưu tiên dọc hành lang.
8. Kết nối hạ tầng mềm là nhân tố bổ trợ cần
thiết cho cơ sở hạ tầng cứng. Kể từ Hội nghị Thượng đỉnh lần trước năm 2014,
chúng tôi hài lòng với việc tất cả các thành viên đã phê chuẩn Hiệp định Tạo
thuận lợi vận tải qua lại biên giới GMS (CBTA), các Phụ lục và Các Nghị định
thư của Hiệp định này, và đã nhất trí về Biên bản ghi nhớ thực hiện "Thu
hoạch sớm" CBTA, cho phép xe thương mại và xe container được di chuyển
trong tiểu vùng. Chúng tôi hoan nghênh việc áp dụng đầy đủ mô hình một lần dừng
vào năm 2015 ở cặp cửa khẩu Lao Bảo – Đen-sa-vẳn giữa Việt Nam và Lào. Chúng
tôi hoan nghênh sự đóng góp từ Hiệp hội đường sắt Mê Công mở rộng và Hiệp hội
Vận tải hàng hóa GMS đã thúc đẩy sự qua lại xuyên biên giới và hỗ trợ phát
triển ngành công nghiệp dịch vụ logistics.
9. Chúng tôi cũng hài lòng với những tiến triển trong lĩnh vực
mua bán điện nhằm thúc đẩy việc mở rộng các kết nối song phương hiện nay trở
thành mạng lưới kết nối nhiều nước thông qua việc điều chỉnh các nguyên tắc
và hệ thống thương mại, góp phần hình thành thị trường điện chung ở khu vực.
10. Chúng tôi ghi nhận năng lực cạnh tranh của GMS liên tục được
cải thiện thông qua các biện pháp tạo thuận lợi cho sự di chuyển thông suốt
qua biên giới của người dân, hàng hoá và dịch vụ và thông qua sự hội nhập của
thị trường, chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị. Điều này được thể hiện qua việc
thương mại của tiểu vùng với phần còn lại của thế giới và dòng vốn FDI đổ vào
tiểu vùng ngày càng gia tăng.
11. Ở cấp độ chuyên ngành, Chương trình Hỗ trợ nông nghiệp trọng
tâm đã tăng cường hợp tác khu vực, nâng cao năng lực quản lý chất lượng nông
sản, thúc đẩy việc áp dụng nông nghiệp có tính đến yếu tố giới và thân thiện
môi trường. Chương trình cũng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực
nông nghiệp, gia tăng khả năng tiếp cận các chuỗi giá trị nông sản của các
nhà sản xuát ở tiểu vùng và thúc đẩy các hoạt động nông nghiệp thân thiện với
môi trường. Chúng tôi ghi nhận điều này sẽ mang lại lợi ích cho các hộ nông
dân nhỏ, phụ nữ ở nông thôn và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhờ đó giải quyết
vấn đề nghèo đói, tiếp cận tới các nhóm yếu thế và gia tăng sự bao phủ của
phát triển bao trùm. Trong ngành du lịch, các chiến dịch thành công quảng bá
GMS là một điểm đến duy nhất đã giúp tăng hơn gấp đôi lượng khách du lịch từ
26 triệu trong năm 2008 lên 60 triệu vào năm 2016.
12. Sáng tạo, công nghệ mới và chuyển đổi kỹ thuật số là những động
lực phát triển mới hết sức quan trọng. Chúng tôi hoan nghênh việc thành lập
Chương trình hợp tác thương mại điện tử xuyên biên giới GMS vào năm 2016 và
báo cáo tình hình hợp tác trong lĩnh vực này, trong đó kể tới sự liên kết với
các doanh nghiệp tư nhân. Điều này tạo thuận lợi cho tăng trưởng của thương mại
điện tử, giúp nâng cao hiệu quả hiệu quả, kết nối và chuyển đổi của các doanh
nghiệp siêu nhỏ, vừa và nhỏ.
13. Để giải quyết những thách thức về đô thị hóa, Khung chiến lược
phát triển đô thị GMS 2015-2022 đã được thực hiện thông qua các dự án quy hoạch
và quản lý phát triển đô thị cho một số thị trấn dọc theo các hành lang kinh
tế, cũng như thông qua việc phát triển các đặc khu kinh tế, cả ở khu vực biên
giới.
14. Chúng tôi rất vui mừng vì Chương trình đã giúp xây dựng
một cộng đồng GMS cùng chung tương lai thông qua các dự án và chương
trình nhằm giải quyết các mối quan tâm chung về xã hội và môi trường. Các dự
án phát triển nguồn nhân lực đã giúp nâng cao năng lực của quốc gia để ứng
phó sự bùng phát dịch bệnh và kiểm soát sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm;
hỗ trợ công nhận lẫn nhau về kỹ năng và trình độ để tăng cường lực lượng lao
động GMS; và tạo điều kiện cho di cư lao động xuyên biên giới an toàn. Kế hoạch
Phnom Penh về Quản lý phát triển đã nâng cao năng lực của hơn 2.500 quan chức
chính phủ GMS và năng lực của các viện nghiên cứu của các nước nhằm hỗ trợ
chương trình nghị sự phát triển của tiểu vùng. Chúng tôi hoan nghênh đóng góp
của các thành viên GMS thông qua các chương trình đào tạo và nâng cao năng lực.
Hợp tác về môi trường đã đạt được thành công trong khuôn khổ Chương trình môi
trường trọng tâm của GMS và Sáng kiến hành lang bảo tồn đa dạng sinh học nhằm
ứng phó với những rủi ro chủ yếu từ suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu
và hướng tới phát triển xanh và bền vững.
15. Sự thành công của Chương trình phụ thuộc vào mối quan hệ đối
tác mạnh mẽ và sâu rộng, chủ yếu qua quan hệ chính phủ - chính phủ, đồng thời
cũng hưởng lợi từ các mối quan hệ giữa các bên liên quan khác bao gồm khu vực
tư nhân, chính quyền địa phương và cộng đồng, giới học giả và giới truyền
thông. Chúng tôi ghi nhận sự hỗ trợ về tài chính và kiến thức từ các đối
tác phát triển song phương và đa phương, bao gồm ADB đã hỗ trợ Chương trình
GMS với tư cách Ban Thư ký. Khu vực tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng
trong mối quan hệ đối tác được hình thành chính thức từ ban đầu với Diễn đàn
Doanh nghiệp GMS (nay là Hội đồng) vào năm 2000 và đã mở rộng với Sáng kiến
doanh nghiệp Mê Công, Hiệp hội Vận tải hàng hóa, các diễn đàn Nông nghiệp
và Du lịch, sàn Thương mại điện tử và Hội nghị ngành Tài chính và Tài chính
thương mại gần đây. Chúng tôi đánh giá cao việc hàng ngàn nông dân và doanh
nghiệp đã tham gia và được hỗ trợ từ Chương trình GMS.
II. Hướng tới tương lai
16. Chương trình đã và đang được thực hiện theo hai khung chiến
lược, hiện nay là chiến lược giai đoạn 2012-2022. Bản đánh giá giữa kỳ khung
chiến lược hiện tại thực hiện trong năm 2017 đã khẳng định sự cần thiết và
phù hợp của các nguyên tắc cơ bản, tuy nhiên vẫn cần được điều chỉnh để đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của các nước thành viên trong bối cảnh môi trường phát triển
có nhiều thay đổi. Chính vì vậy, Kế hoạch hành động Hà Nội (HAP) 2018-2022 đã
được xây dựng nhằm đưa ra các điều chỉnh cần thiết và củng cố trọng tâm hợp
tác để bảo đảm hiệu quả tối đa của Chương trình Hợp tác Kinh tế GMS. Để hỗ trợ
HAP, Khung đầu tư Khu vực 2022 đã được xây dựng với danh
sách 227 dự án có tổng kinh phí là 66 tỷ USD.
17. Chúng tôi hoan nghênh các Bộ trưởng, các đối tác phát triển
và các bên liên quan khác đã chuẩn bị các văn bản này. Chúng tôi nhất trí
thông qua và ủng hộ tối đa các văn kiện HAP và RIF với các định hướng hợp tác
của Chương trình GMS trong trung hạn. RIF là một "danh sách dự án mở"
có thể được xem xét và cập nhật thường xuyên để đáp ứng sự thay đổi của môi
trường và ưu tiên hợp tác.
18. Chúng tôi đánh giá cao nỗ lực của các quan chức, khu vực tư
nhân và các bên liên quan khác đã chuẩn bị và báo cáo chúng tôi các bản
nghiên cứu, chiến lược và kế hoạch hành động chuyên ngành. Chúng tôi đặc biệt
ghi nhận các chiến lược hợp tác ngành được hoàn thành gần đây trong lĩnh vực
du lịch (2016-2025), các chuỗi giá trị nông nghiệp an toàn và thân thiện với
môi trường (2018-2022), môi trường (2018-2022) và giao thông (2018-2030).
Chúng tôi cam kết tăng cường hợp tác trong lĩnh vực y tế, phát triển đô thị,
kết nối phần cứng và phần mềm và các hành lang kinh tế và tăng cường hơn nữa
các hoạt động nâng nâng cao năng lực liên quan.
19. Trong khi HAP và RIF sẽ hỗ trợ việc triển khai Chương trình
trong trung hạn, các diễn biến ở khu vực và quốc tế trong dài hạn sẽ
làm thay đổi môi trường phát triển, đem đến những cơ hội và thách thức mới
và đòi hỏi các chính sách mới. Sự phát triển của GMS sẽ đối mặt với sự thay đổi
ngày càng nhanh và các xu thế mới như gia tăng tác động của biến đổi khí hậu
và suy thoái môi trường; cơ cấu dân số già hóa; di cư xuyên biên giới tạo ra
các vấn đề về bảo trợ xã hội, đặc biệt đối với lao động không có tay nghề;
các công nghệ tạo đột phácủa cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm
thay đổi căn bản các hệ thống xã hội và kinh tế; áp lực kinh tế - xã hội tạo
ra do quá trình đô thị hoá và sự hình thành các khu kinh tế cửa khẩu; và khoảng
cách phát triển trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia thành viên.
20. Phương pháp tiếp cận tầm khu vực, trên cơ sở tham vấn, các nỗ
lực chung và chia sẻ lợi ích, là thích hợp để giải quyết những vấn đề này. Do
đó, chúng tôi yêu cầu các Bộ trưởng và các quan chức cấp cao, và khuyến khích
các bên liên quan khởi động nghiên cứu con đường phát triển của MS sau năm
2022 của khung chiến lược hiện nay và phương thức để củng cố, tái cấu trúc
khung chiến lược nhằm duy trì khả năng linh hoạt, thích ứng và phù hợp.
21. Chúng tôi tái khẳng định cam kết của mình đối với sự phát
triển bền vững của GMS thông qua việc thực hiện đầy đủ Chương trình nghị sự
2030 của LHQ về phát triển bền vững nhằm thúc đẩy sự phát triển sáng tạo, hài
hòa, xanh, bao trùm và mở cho mọi người, và đạt được sự cân bằng trong ba
khía cạnh về kinh tế, xã hội và môi trường. Chúng tôi cũng nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc thực hiện đầy đủ Hiệp định Paris về thay đổi khí hậu ở cấp khu
vực và quốc gia. Đất nước của chúng ta sông liền sông, núi liền núi, do đó
chúng tôi cam kết tăng cường hợp tác trong việc sử dụng bền vững và quản lý tổng
hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm đất đai, tài nguyên nước và rừng,
thông qua hợp tác xuyên biên giới và nỗ lực tập thể, để đạt được an ninh
lương thực, an ninh nguồn nước và an ninh năng lượng của tiểu vùng.
22. Chúng tôi nhận thấy toàn cầu hóa mang lại những lợi ích đáng
kể cho các nước và tiểu vùng. Chúng tôi cam kết khai thác hiệu quả mặt tích cực
của toàn cầu hóa, củng cố và khiến toàn cầu hóa mở hơn, bao trùm hơn, cân bằng
và bền vững hơn và bảo đảm rằng tất cả mọi người đều được hưởng lợi từ quá
trình này. Chúng tôi quyết tâm dành nhiều quan tâm hơn cho những người dân dễ
bị tổn thương và tích cực làm việc cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo để không
ai bị bỏ rơi. Chúng tôi cam kết xây dựng nền kinh tế mở cho từng quốc gia và
tiểu vùng thông qua tăng cường hội nhập kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và thuận
lợi hoá thương mại và đầu tư, hỗ trợ hệ thống thương mại đa phương và phản đối
mọi hình thức bảo hộ. Chúng tôi khuyến khích hợp tác nhiều hơn giữa các nước
thành viên trong việc thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy
phát triển các hành lang kinh tế và cơ sở hạ tầng thương mại xuyên biên giới,
nâng cao năng lực quản lý thương mại. Chúng tôi khuyến khích việc thực hiện
Khu vực Mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN và sớm hoàn thành Hiệp định Quan hệ đối
tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
23. Chúng tôi nhận thức việc tăng cường kết nối tạo ra các động
lực tăng trưởng mới và tạo lợi thế cạnh tranh. Chúng tôi cam kết triển khai
các hành động cụ thể để cải thiện kết nối về cơ sở hạ tầng, chính sách,
thương mại, tài chính và giao lưu nhân dân giữa các nước GMS. Đồng thời,
chúng tôi nhận ra những thách thức lớn trong việc bảm đảm nguồn tài chính cần
thiết, thu hẹp khoảng cách tài chính của đầu tư cơ sở hạ tầng, hình thành một
cơ chế cung cấp vốn dài hạn, đa dạng và bền vững, tăng cường kết nối cơ sở hạ
tầng tài chính và khuyến khích các tổ chức tài chính phát triển đóng vai trò
tích cực. Chúng tôi được khích lệ bởi sự quan tâm mà các đối tác hiện này,
trong đó có ADB, các tổ chức và quỹ tài phát triển tài chính mới, như Ngân
hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á và Quỹ Cơ sở hạ tầng ASEAN, đã thể hiện đối
với việc đầu tư vào các dự án GMS. Chúng tôi ghi nhận ý định mở rộng quan hệ
đối tác công tư và các phương thức tài trợ khác trong tiểu vùng.
24. Một GMS bền vững sẽ được hội nhập ở tầm khu vực và kết nối ở
tầm toàn cầu. Chúng tôi ghi nhận vai trò phát triển quan trọng của hợp tác và
hội nhập khu vực và ủng hộ các nguyên tắc của chủ nghĩa khu vực mở. Do đó,
chúng tôi sẽ tìm cách phát huy sức mạnh tổng hợp và sự bổ trợ giữa chương
trình GMS và các sáng kiến khu vực và toàn cầu khác, bao gồm Cộng đồng ASEAN,
Sáng kiến Vành đai và Con đường, Cơ chế Hợp tác Mê Công - Lan Thương, Hợp tác
Campuchia - Lào – Myanmar - Việt Nam, Chiến lược hợp tác kinh tế
Ayeyawady-Chao Phraya - Mê Công và các khuôn khổ hợp tác khu vực khác. Điều
này sẽ đem lại động lực cho nỗ lực của chúng tôi vì một khu vực GMS bền vững,
hội nhập và thịnh vượng; và Chương trình GMS sẽ hợp tác với các cơ chế này.
Chúng tôi ủng hộ các bước đi cụ thể nhằm hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN và các
kết quả của Diễn đàn Cấp cao Hợp tác quốc tế về Vành đai và Con đường mà giúp
tăng cường kết nối khu vực.
III. Kết luận
25. Trong 25 năm qua, hợp tác của chúng tôi và những kết quả cụ
thể đã nuôi dưỡng ý thức cộng đồng mạnh mẽ với một tương lai chung cho các nước
GMS. Cách tiếp cận nhất quán của Khung Chiến lược và Chương trình GMS đã tạo
ra sự chuyển đổi hết sức đa dạng.
26. Chúng tôi tin rằng cách tiếp cận của chúng tôi hướng tới
tương lai là hoàn toàn khả thi. Chúng tôi lạc quan về tương lai của tiểu vùng
và khả năng thích ứng và giải quyết những thách thức. Chúng tôi thấy một
tương lai tươi sáng hơn với sự phát triển bền vững và chất lượng cao, tăng cường
phối hợp chính sách, hội nhập sâu hơn về kinh tế, kết nối khu vực rộng hơn,
liên kết thương mại chặt chẽ hơn, và hợp tác tài chính, củng cố kết nối nhân
dân và liên kết chặt chẽ hơn với thế giới. Chúng tôi sẽ có hành động cụ thể để
đạt được tầm nhìn này và thực hiện đầy đủ 3 trụ cột của GMS.
27. Để tiếp tục bảo đảm cho tương lai chung của chúng ta trong
GMS, chúng tôi cam kết tăng cường quan hệ đối tác, dựa trên sự tôn trọng lẫn
nhau, tin tưởng, bao trùm và hợp tác cùng có lợi. Chương trình GMS sẽ tiếp tục
là một nền tảng thiết yếu để tăng cường tính kết nối, cạnh tranh và cộng đồng
và tiến tới một GMS bền vững, hội nhập và thịnh vượng.
Chúng tôi đồng ý gặp lại tại Hội nghị thượng đỉnh GMS lần thứ 7
tổ chức tại Campuchia năm 2021.
|