Hằng năm, cứ vào dịp mồng 10 tháng Ba âm lịch, người dân từ khắp nơi lại hành hương về Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đền Hùng (Phú Thọ) để tưởng nhớ công ơn dựng nước của các Vua Hùng. Hằng năm, cứ đến mồng 10 tháng Ba âm lịch, người dân ở mọi miền
đất nước, kể cả bà con đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, đều thành tâm
hướng về ngôi mộ Tổ thiêng liêng trên núi Nghĩa Lĩnh (Việt Trì, Phú Thọ) để tỏ
lòng thành kính biết ơn người đã khai sinh ra đất nước, người đã gieo những hạt
giống đầu tiên để từ đó dần dần hình thành hàng chục triệu người Việt Nam hôm
nay.
Câu chuyện thời Hùng Vương từ xa xưa, vốn chỉ là những truyền
thuyết, dã sử, nhưng đã dần được làm sáng tỏ bởi những tư liệu lịch sử và những
di sản được khai quật từ trong lòng đất. Cách chúng ta gần 600 năm, ngay từ
thời Vua Lê Thánh Tông, với các nhà sử học tâm huyết và tài năng, thì thời
Hùng Vương đã thật sự trở thành một phần không thể thiếu trong bộ Quốc sử của
nước ta. Năm 1942, tại vùng căn cứ cách mạng ở Cao Bằng, nhằm tuyên truyền
giáo dục lòng yêu nước trong nhân dân, Bác Hồ đã viết bài thơ "Lịch sử nước
ta”, trong đó nêu: Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang...
Và đến năm 1954, khi cùng Đại đoàn quân tiên phong về tiếp quản
Thủ đô, dừng chân tại Đền Hùng, Bác căn dặn mọi người: "Các Vua Hùng đã có
công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời căn dặn đó của
Bác cũng là lời thề của toàn dân tộc, trước anh linh của các Vua Hùng.
Dù còn không ít những di sản vật chất và tinh thần từ thời Hùng
Vương dựng nước chưa được khai quật, sưu tầm hết, nhưng với những gì còn in
sâu trong tâm khảm, trong các lễ hội, tín ngưỡng, các phong tục tập quán của
các thế hệ người Việt Nam, mỗi chúng ta đều có quyền tự hào về những gì mà nhờ
đó, tổ tiên ta đã biến một vùng đất hoang sơ, luôn phải gánh chịu những thiên
tai, khí hậu khắc nghiệt... thành một quốc gia có cương vực rõ ràng, có bộ
máy quản lý xã hội thống nhất, có các hoạt động kinh tế đa dạng, có tiếng nói
và có thể có cả chữ viết. Tất cả những điều đó minh chứng rằng, trên đất nước
ta, từ thời Hùng Vương, đã sớm hình thành một dân tộc, một nền văn hóa dân tộc.
Ý thức về chủ quyền dân tộc đã được hình thành từ đó. Khi danh nhân văn hóa
Nguyễn Trãi, từ 600 năm trước, trong "Bình Ngô đại cáo” viết: "Như nước Đại
Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông, bờ cõi đã chia,
phong tục Bắc Nam cũng khác”, thì cũng nhằm khẳng định chủ quyền của đất nước
từ lâu. Đó là tư tưởng lớn, là tài sản lớn mà tổ tiên ta từ ngàn xưa đã giao
lại cho chúng ta. Nhằm phát huy tư tưởng truyền thống to lớn đó, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Cùng với tư tưởng về chủ quyền dân tộc, thông qua hàng loạt truyền
thuyết, các lễ hội, tín ngưỡng, phong tục tập quán..., tổ tiên ta đã gửi lại
muôn vàn thế hệ con cháu sau này những thông điệp về đạo lý làm người của dân
tộc. Đó là tính cộng đồng dân tộc, là lối sống nghĩa tình và chủ nghĩa yêu nước.
Khi một dân tộc tự coi mình có chung một ông Tổ, cùng sinh ra từ bọc trứng của
bà mẹ Âu Cơ, thì sự ràng buộc, gắn bó giữa họ với nhau là vấn đề có tính sinh
tử. Phải chăng xuất phát từ đó, Bác Hồ đã từng nói: "Đồng bào Kinh hay Thổ,
Mường hay Mán, Giarai hay Êđê, Xêđăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác,
đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có
nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”(1). Tư tưởng "Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” của Bác cũng xuất phát
từ đó.
Cùng với tính cộng đồng, dân tộc ta cũng là dân tộc biết sống với
nhau có tình có nghĩa. Đó là câu chuyện Vua Hùng thương yêu dân, dạy dân cách
trồng lúa, đánh cá, săn thú. Vua Hùng dạy cho dân lấy chàm vẽ lên mình để
tránh bị thuồng luồng làm hại. Trong tâm thức của người dân Việt, Vua Hùng
không chỉ là người cai quản đất nước, mà còn là, và chủ yếu là người đã sinh
ra dân tộc ta, dày công dạy bảo để chúng ta nên người. Chính từ tâm thức đó,
dân tộc ta từ rất lâu đã hình thành nên tục thờ cúng tổ tiên - một phương thức
thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng
mình. Tục thờ cúng tổ tiên, cụ thể là Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại (năm 2012).
Cũng xuất phát từ lối sống có tình có nghĩa, cha ông ta từ xa xưa đã sáng tạo
ra hàng loạt ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích để cổ vũ cho tình thương yêu giữa
con người với con người. Là người Việt Nam, ai mà chẳng thuộc lòng những lời
răn dạy: "Bầu ơi thương lấy bí cùng”, "Chị ngã em nâng”, "Lá lành đùm lá
rách”... Như vậy, có thể thấy, cùng với tính cộng đồng dân tộc, lối sống tình
nghĩa đã tạo nên chủ nghĩa nhân văn của người Việt Nam ngay từ buổi sơ khai của
lịch sử. Cái bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam cũng được khởi nguồn từ đó.
Do sớm có ý thức về chủ quyền dân tộc, sớm hình thành tính cộng
đồng và lối sống tình nghĩa, mà người Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước
đã sớm có ý thức bảo vệ mảnh đất sinh sống của mình, chống lại sự xâm lược từ
bên ngoài, đồng thời biết chăm lo mở mang bờ cõi từ đồng bằng lên miền núi và
xuống miền biển. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta được hình thành từ đó. Từ
những câu chuyện như: bà mẹ Âu Cơ mang 50 người con lên núi, Lạc Long Quân
mang 50 người con xuống biển; Mai An Tiêm biến hoang đảo thành nơi sinh sống
và sản xuất, đến chuyện Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân, An Dương Vương xây
thành Cổ Loa chống quân xâm lược Tần (Trung Quốc)... đều khẳng định ý chí xây
dựng và bảo vệ chủ quyền đất nước.
Những thông điệp mà tổ tiên ta để lại thông qua các truyền thuyết,
các lễ hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng... rất phong phú. Hiểu và thực hiện
tốt những thông điệp đó luôn là trách nhiệm của tất cả chúng ta, đặc biệt những
người có trọng trách trong xã hội. Kinh nghiệm lịch sử chỉ ra rằng, ở thời kỳ
nào mà ý thức về chủ quyền của đất nước, tính cố kết dân tộc, lối sống tình
nghĩa và chủ nghĩa yêu nước được phát huy, thì lúc đó đất nước được ổn định,
biên cương được giữ vững, xã hội có cuộc sống bình yên. Trái lại, lúc nào, thời
nào mà ý thức về chủ quyền bị lãng quên, bị coi nhẹ, tính cố kết dân tộc bị
lơi lỏng, bị chia cắt, lối sống tình nghĩa bị nhạt phai thì đó là lúc an ninh
quốc gia, an sinh xã hội sẽ trở nên bất ổn.
Ngày nay, trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế, bên cạnh những thời cơ, chúng ta cũng gặp phải không ít
nguy cơ. Mặt trái của kinh tế thị trường, của công nghệ và hội nhập rất dễ
gây tổn hại đến bản sắc dân tộc của văn hóa nước ta, rất dễ làm suy yếu mối
quan hệ thân tình giữa con người với con người từ trong phạm vi gia đình đến
ngoài xã hội. Trước tình hình đó, việc tập trung khơi lại ngọn nguồn trong
sáng của văn hóa Hùng Vương về đạo lý làm người, nhất là về ý thức chủ quyền
dân tộc, tính cố kết cộng đồng, về lối sống tình nghĩa và chủ nghĩa yêu nước,
sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng để chúng ta đủ sức mạnh chống lại sự xâm
lăng về văn hóa từ bên ngoài, đồng thời đó cũng là bệ phóng thần kỳ để đất nước
vươn tới văn minh, hạnh phúc. Với ý nghĩa đó chúng ta sẽ có điều kiện hiểu
sâu hơn lời dạy của Bác: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ lấy nước”. "Công dựng nước” mà Bác nói ở đây không chỉ có ý
nghĩa tạo lập nên giang sơn đất nước này, mà còn có ý nghĩa tạo ra sức sống của
dân tộc Việt Nam, cái hồn dân tộc Việt Nam. Vì vậy "giữ lấy nước” mà Bác nói
cũng có nghĩa phải giữ lấy giang sơn đất nước này, và phải giữ lấy giá trị
làm người mà tổ tiên ta đã tạo nên. Ý nghĩa thiêng liêng của Ngày Giỗ Tổ Hùng
Vương là ở đó. Ý nghĩa sâu xa của câu ca "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ
Tổ mồng 10 tháng Ba” cũng là ở đó.
|
TheoNhandan