Lực lượng quân đội cách mạng Campuchia tiến vào giải phóng Thủ đô
Phnom Penh trưa 7/1/1979. (Ảnh: TTXVN)
Nhưng do bị các thế lực phản động, thù địch nước ngoài kích động,
lợi dụng cũng như những tư tưởng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chế độ Khmer Đỏ mà
đứng đầu là tập đoàn phản động Pol Pot phá hoại truyền thống tốt đẹp; thực hiện
chính sách diệt chủng ở Campuchia và xâm lược biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Trước hành động của tập đoàn Pol Pot, đáp lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân
Campuchia, nhân dân và quân đội nhân dân Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang
Campuchia và sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới đã đánh đổ chế độ diệt chủng
vào ngày 7/1/1979.
Việc phá hoại mối quan hệ liên minh đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Việt
Nam-Lào-Campuchia và những hành động tàn bạo, dã man, vô nhân tính của tập đoàn
Pol Pot nằm trong một âm mưu chiến lược. Từ những năm cuối của cuộc kháng chiến
chống Mỹ (1970-1975), quân Pol Pot đã tiến hành một số vụ tiến công, bắt cóc giết
hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến trường Campuchia, đồng thời gây
chia rẽ nội bộ những người cộng sản Campuchia.
Chỉ tính riêng sáu tháng đầu năm 1973, tập đoàn tội ác này gây ra hơn 100 vụ,
sát hại và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực và
vũ khí.
Ở trong nước, tháng 4/1975, sau khi lên nắm quyền, Pol Pot thực thi chính sách
diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người
dân Campuchia; biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố
chôn người tập thể.
Trong 3 năm 8 tháng 20 ngày nắm quyền, chế độ Pol Pot đã giết hại gần 3 triệu
người dân Campuchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản
xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, buôn bán và đẩy
Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong.
Đối với Việt Nam, tập đoàn phản động Pol Pot phá nát mối quan hệ đoàn kết, hữu
nghị truyền thống lâu đời giữa Việt Nam và Campuchia; ra sức vu khống Việt Nam,
kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi; kích động xét lại quan hệ hai nước, đòi hoạch
định lại biên giới Việt Nam-Campuchia, vô cớ coi Việt Nam là kẻ thù số 1 và tiến
hành hàng loạt những cuộc xâm lấn biên giới, giết hại dân thường.
Năm 1975, khi đất nước Việt Nam vừa thống nhất, Pol Pot đã cho quân xâm lược
các đảo, biên giới đất liền Tây Nam nước ta. Ngày 3/5/1975, chúng đánh chiếm đảo
Phú Quốc. Ngày 10/5/1975, chúng tiếp tục đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt và giết
hơn 500 dân thường.
Trên đất liền, chúng khiêu khích bộ đội biên phòng Việt Nam, di dời cột mốc
biên giới ở một số điểm thuộc các tỉnh Tây Ninh, Kon Tum, Đắk Lắk.
Tháng 10/1975, chúng xâm nhập khu vực Pa Chàm (Lổ Cồ), xâm canh các khu vực Mộc
Bài, Khuốc, Vạt Sa, Tà Nốt, Tà Bạt. Cuối năm 1975 đầu năm 1976, quân Pol Pot bất
ngờ tiến hành một số vụ xâm nhập vào sâu lãnh thổ Việt Nam, có nơi hơn 10km như
ở vùng sông Sa Thầy thuộc các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, gây ra những tộc ác với
nhân dân Việt Nam.
Đầu năm 1976, Pol Pot xác định: "Tai họa nhất cần phải chú ý là Việt Nam...” Đi
đôi với hành động xâm lược, tập đoàn phản động Pol Pot ra sức tuyên truyền, bôi
nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động tâm lý chống Việt Nam, coi Việt Nam là "kẻ thù
truyền kiếp,” "kẻ thù số 1.”
Lấy cớ làm sạch nội bộ, chúng tiến hành phân loại dân, thực hiện nhiều cuộc
thanh trừng đẫm máu, trong đó tập trung vào số cán bộ trước đây được đào tạo ở
Việt Nam.
Từ 30/4/1975-30/4/1977, Pol Pot ráo riết chuẩn bị chiến tranh khi phân chia lại
đơn vị hành chính, tổ chức bộ máy chính quyền thôn, xã, huyện, tỉnh theo kiểu
quân sự, thanh trừng những người chống đối, kích động tâm lý chống Việt Nam;
xây dựng lực lượng, phát triển quân chủ lực từ bảy sư đoàn khi mới giải phóng
lên 12 sư đoàn quân chính quy với đầy đủ thành phần binh chủng, hàng chục nghìn
quân địa phương, trong đó điều động 41% quân số và trang thiết bị áp sát biên
giới Việt Nam.
Trong hai tháng 3-4/1977, quân Pol Pot liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân diễn tập
dọc biên giới với nước ta dưới danh nghĩa "phòng thủ khu vực,” "bảo đảm an ninh
nội địa,” nhưng thực chất đó là các cuộc điều quân ra biên giới. Pol Pot tuyên
bố: "Mâu thuẫn Việt Nam-Campuchia là mâu thuẫn chiến lược sống còn, không thể
điều hòa được, cũng không thể giải quyết bằng thương lượng mà phải dùng biện
pháp quân sự.”
Cuối tháng 4/1977, Pol Pot điều động năm sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe
tăng áp sát biên giới Việt Nam, thực hiện âm mưu xâm lược quy mô lớn vào lãnh
thổ vùng biên giới Tây Nam của nước ta.
Đêm 30/4/1977, lợi dụng lúc quân và dân ta kỷ niệm hai năm Ngày giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tập đoàn Pol Pot đã mở cuộc tiến công trên
toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang, chính thức bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược
biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Trước hành động khiêu khích và mở rộng chiến tranh của tập đoàn Pol Pot, Đảng
và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm mong muốn chính sách hòa bình, tiếp
tục phát triển tình hữu nghị đoàn kết giữa nhân dân hai nước; các quân khu, tỉnh
có đường biên giới với Campuchia nhận được chỉ thị tăng cường hữu nghị với nhân
dân Campuchia, tránh mọi sự khiêu khích.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, tháng 12/1976, Đảng, Nhà nước
Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường của mình: "Ra sức bảo vệ và phát triển
mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân
Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài
và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em trên nguyên tắc
hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau; làm cho ba nước vốn đã gắn bó với
nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước.”
Bất chấp mọi nỗ lực ngoại giao hòa bình của Việt Nam, tập đoàn phản động Pol
Pot ra sức tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, chủ động gây ra các vụ xung đột, lấn
chiếm, rồi mở chiến tranh xâm chiếm biên giới Tây Nam Việt Nam. Đi đến đâu,
chúng tàn phá làng mạc, giết hại dã man người dân, kể cả người già, phụ nữ, trẻ
em Việt Nam.
Trước những tội ác "trời không dung, đất không tha” của tập đoàn quân Pol Pot với
người dân Việt Nam, chúng ta buộc phải thực hiện quyền tự vệ chính đáng. Từ
tháng 12/1977, ta mở đợt phản công trên các hướng Đường 7, Đường 1 và Đường 2,
đánh bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch. Tiếp đó, từ mùa khô năm
1978, quân và dân ta phối hợp các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia liên
tiếp mở các cuộc tiến công, đẩy lực lượng của tập đoàn Pol Pot ngày càng rơi
vào thế bị động, lúng túng.
Với sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 3/12/1978, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia chính thức được thành lập. Đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết
dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23/12/1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng
lực lượng vũ trang của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng
phản công-tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của
quân Pol Pot.
Ngày 6/1/1979, ta bắt đầu tổng công kích vào Thủ đô Phnom Penh, đến ngày
7/1/1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt trận đoàn kết
dân tộc cứu nước Campuchia giải phóng Phnom Penh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn
của chế độ diệt chủng Khmer Đỏ với tập đoàn Pol Pot.
Thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam có ý nghĩa
vô cùng to lớn. Không chỉ một lần nữa khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc
lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, sự giúp đỡ trong sáng, chí tình,
chí nghĩa đối với nhân dân Campuchia, thắng lợi này còn cứu nhân dân Campuchia
thoát khỏi họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước
vào kỷ nguyên độc lập, tự do, hòa bình và phát triển; giúp nhân dân hai nước
khôi phục lại tình đoàn kết hữu nghị vốn có.
Thắng lợi đó như khẳng định của Thủ tướng Campuchia Hun Sen "Không có sự giúp đỡ
của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay, dứt khoát là thế” và thể hiện qua
mối quan hệ hữu nghị, hợp tác gia hai quốc gia ngày càng được củng cố, phát triển
trong 40 năm qua./.
TheoVietnamplus