Vũ khí của địch bị bộ đội Việt Nam thu được tại huyện Hòa An, tỉnh
Cao Bằng, tháng 2/1979. (Ảnh: Quang Khanh/TTXVN)
Thực hiện quyền tự vệ chính đáng, quân và dân Việt Nam anh dũng
chiến đấu, giáng trả quyết liệt.
Chịu nhiều tổn thất mà chưa đạt được mục tiêu ban đầu đề ra, đồng thời bị dư luận
thế giới lên án mạnh mẽ do tính chất phi nghĩa của cuộc tiến công, phía Trung
Quốc rút hết quân về nước vào ngày 18/3/1979.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm của sự kiện này, Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) trân trọng
giới thiệu bài viết: "Chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc Tổ quốc 1979 - Thắng
lợi và bài học lịch sử” của tiến sỹ Trần Hữu Huy, Hội viên Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa của phía Trung Quốc
Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng,
nhân dân hai nước gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng sau khi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thắng lợi (1975), quan hệ
hai nước dần xấu đi.
Đầu năm 1979, khi Quân đội nhân dân Việt Nam tiến công đánh đổ tập đoàn phản động
Pol Pot, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, mở ra công cuộc
hồi sinh đất nước, chính quyền Trung Quốc cùng một số nước khác ra sức tuyên
truyền xuyên tạc sự xuất hiện của Quân tình nguyện Việt Nam trên lãnh thổ
Campuchia.
Mục đích của họ là muốn chống phá cách mạng Việt Nam, hậu thuẫn cho các thế lực
phản động để mưu toan áp đặt lợi ích dân tộc của họ trên bán đảo Đông Dương.
Trong khi đó, bối cảnh quốc tế lúc này đang có những diễn biến rất phức tạp khi
mâu thuẫn Liên Xô-Trung Quốc gia tăng căng thẳng; quan hệ Trung Quốc-Mỹ tiếp tục
có sự cải thiện và cả hai đều coi Liên Xô là "kẻ thù số 1.”
Sau nhiều lần gây ra các vụ khiêu khích quân sự quy mô nhỏ, từ ngày 17/2/1979,
phía Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, trên 500 xe tăng, xe bọc thép; hàng
ngàn khẩu pháo các loại... mở cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên
toàn tuyến biên giới phía Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng
Ninh), trong đó hướng tiến công chủ yếu là Cao Bằng-Lạng Sơn; hướng tiến công
quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu);
hướng nghi binh thu hút lực lượng là Quảng Ninh, Hà Tuyên.
Lực lượng công an vũ trang dũng cảm chiến đấu tại khu vực Đồng
Đăng, tỉnh Lạng Sơn. (Ảnh: Tạ Hải/TTXVN)
Bộ Chỉ huy phía Trung Quốc chủ quan nhận định: với lực lượng, vũ khí trang bị
chiếm ưu thế áp đảo hiện tại (bộ binh đông hơn gấp 3,5 lần; pháo binh nhiều gấp
5,7 lần; xe tăng, thiết giáp nhiều gấp 9,8 lần...), quân Trung Quốc sẽ nhanh
chóng đập tan hệ thống phòng thủ biên giới của Việt Nam; mặt khác, một bộ phận
lớn Quân đội Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, lực lượng
tăng cường cho mặt trận biên giới sẽ gặp nhiều khó khăn.
Từ nhận định đó, Bộ Chỉ huy phía Trung Quốc đề ra kế hoạch là nhanh chóng đánh
chiếm một số thị xã, địa bàn quan trọng, sau đó tùy điều kiện tình hình cụ thể
có thể phát triển sâu vào nội địa Việt Nam.
Trên mỗi hướng tiến công, quân Trung Quốc thường kết hợp đánh chính diện với vu
hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt; phối hợp giữa bộ binh, xe tăng, xe bọc thép
và pháo binh, thực hiện đánh phá triệt để toàn diện rất tàn khốc. Tuy nhiên,
trên thực tế, quân Trung Quốc đã gặp phải sự giáng trả quyết liệt từ phía Việt
Nam.
Quyền tự vệ chính đáng của nhân dân Việt Nam
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi (năm 1975), nhiều
đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Nhà nước Việt Nam (trong đó có cả Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn) sang thăm Trung Quốc, khẳng
định Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung
Quốc về sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn cả về chính trị, vật chất lẫn tinh thần trong
hai cuộc kháng chiến cứu nước; phía Việt Nam luôn coi trọng việc giữ gìn quan hệ
láng giềng hữu nghị hợp tác với Trung Quốc.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, khi quan hệ hai nước căng thẳng, xung đột vũ trang
nhỏ lẻ ở biên giới liên tục diễn ra, phía Việt Nam vẫn kiên trì kêu gọi Chính
phủ Trung Quốc cùng nhau đàm phán giải quyết mọi mâu thuẫn, tranh chấp bằng biện
pháp hòa bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ.
Đáp lại thiện chí đó, phía Trung Quốc vẫn chủ trương tiến hành đường lối chống
Việt Nam, cắt toàn bộ viện trợ đã cam kết, đưa ra những đòi hỏi vô lý khi đàm
phán (Việt Nam rút Quân tình nguyện khỏi Campuchia, có quy chế riêng bảo đảm
quyền lợi người Việt gốc Hoa ở miền Nam Việt Nam...).
Mặt khác, Chính phủ Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền vu cáo "Việt Nam
xâm lược Campuchia,” "Việt Nam lấn chiếm đất đai, quấy rối biên cương phía Nam
Trung Quốc” nhằm đánh lạc hướng dư luận trong và ngoài nước, từ đó ngang ngược
tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học.”
Lường định về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, cuối năm 1978, Trung ương Đảng,
Chính phủ Việt Nam khẩn trương tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng thù
biên giới phía Bắc.
Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ Việt
Nam ra tuyên bố nêu rõ nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi ngược lại lợi ích của
nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước,
đồng thời khẳng định quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác là thực
hiện quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả.
Trong những ngày đầu chiến tranh, phía Việt Nam chủ trương không tập trung lực
lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm, cũng không vội rút lực lượng chủ lực
cơ động phía Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa
phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính, có sự bổ
sung một bộ phận lực lượng từ tuyến sau lên tăng cường.
Trải qua 10 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và
nhân dân Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu rất anh dũng,
tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiên chiến tranh, làm chậm ý định
"đánh nhanh, chiếm nhanh” của quân Trung Quốc, buộc đối phương phải tung lực lượng
dự bị chiến lược vào tham chiến. Với ưu thế quân đông, nhiều vũ khí trang bị kỹ
thuật, quân Trung Quốc từng bước tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, lần lượt chiếm
một số địa bàn, thị xã quan trọng như: Lào Cai (19/2), Cao Bằng (24/2), Cam Đường
(25/2), Lạng Sơn (5/3)...
Trước tình hình cấp bách đó, Chính phủ Việt Nam quyết định sử dụng các binh
đoàn chủ lực mạnh, sẵn sàng mở những chiến dịch phản công quy mô lớn của binh
chủng hợp thành. Theo phương châm đó, đầu tháng 3/1979, Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng Việt Nam ra lệnh cho Quân đoàn 2 đang làm nhiệm vụ quốc tế tại
Campuchia nhanh chóng chuyển toàn bộ lực lượng về phía Bắc tập kết, đồng thời,
ra quyết định thành lập Quân đoàn 5 (ngày 2/3/1979) ngay tại mặt trận biên giới
(gồm bốn sư đoàn bộ binh: 3, 338, 327, 337 cùng một số đơn vị kỹ thuật và bảo đảm
khác).
Các đơn vị chủ lực của Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không-Không quân và các
binh chủng kỹ thuật khác sẵn sàng tham gia chiến đấu. Để phát huy sức mạnh tổng
hợp cả nước, ngày 4/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam ra quyết định tổng động
viên lực lượng bảo vệ Tổ quốc. Kế hoạch tác chiến chiến lược được bổ sung thảo
luận thông qua.
Vào thời gian này, do bị thiệt hại nặng nề mà chưa đạt được mục tiêu cơ bản đề
ra, lại bị dư luận quốc tế lên án mạnh mẽ, tối 5/3/1979, chính quyền Trung Quốc
tuyên bố rút quân về nước. Để tỏ thiện chí hòa bình, mong muốn khôi phục quan hệ
hữu nghị giữa hai nước, Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho các lực
lượng vũ trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc dừng chiến dịch phản
công để tạo điều kiện cho quân Trung Quốc rút về. Đến ngày 18/3/1979, Trung Quốc
hoàn thành việc rút quân khỏi Việt Nam.
Thắng lợi và bài học lịch sử
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam diễn ra trong
vòng khoảng một tháng (từ 17/2-18/3/1979) nhưng có ý nghĩa thắng lợi rất to lớn,
thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản:
Quân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân Trung Quốc, bắn cháy
và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy 115
khẩu pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự... buộc đối
phương sớm rút quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các nhà cầm quyền
Trung Quốc muốn áp đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông Dương.
Cuộc chiến đấu này thêm một lần nữa khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân
dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bởi Việt Nam lúc này vừa kết thúc cuộc kháng
chiến chống Mỹ chưa lâu (1975), vừa kết thúc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam và đang làm nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt
chủng Pol Pot, thực hiện công cuộc hồi sinh đất nước, kinh tế lại đang gặp rất nhiều
khó khăn do cấm vận của Mỹ...
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng định
đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén
của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam, nhất là trong việc nắm bắt tình
hình, đánh giá đúng khả năng hành động của đối phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ
đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt sẵn sàng đối
phó; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến
tranh nhân dân vững chắc.
Qua thực tiễn điều hành, chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt
Nam luôn khẳng định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả mọi
cuộc tiến công xâm phạm chủ quyền, nhưng đồng thời cũng luôn thể hiện rõ lòng
bao dung, khát vọng hòa bình, mong muốn chấm dứt xung đột để xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam-Trung Quốc, góp phần gìn giữ môi trường
hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Để giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh, nhân dân Việt Nam cũng chịu những tổn
thất nặng nề: hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ thương vong; hàng chục ngàn dân thường
bị thiệt mạng. Các thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn, Cam Đường, Lào Cai gần như bị hủy
diệt hoàn toàn; tổng cộng có 320 xã, 735 trường học, 41 nông trường, 81 xí nghiệp,
hầm mỏ và 38 lâm trường bị tàn phá; 400.000 gia súc bị giết, bị cướp. Khoảng
50% trong tổng số 3,5 triệu người ở sáu tỉnh biên giới bị mất nhà cửa, tài sản
và phương tiện sinh sống.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 là sự kiện lịch sử đặc biệt, để lại
cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý báu:
Một là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình,
dự đoán chính xác âm mưu và hành động của các bên liên quan, nhất là động thái
các nước lớn, trên cơ sở đó có sự chuẩn bị toàn diện, không để bị động bất ngờ
trong mọi tình huống.
Hai là, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt
chẽ đấu tranh chính trị, quân sự với đấu ngoại giao để vừa phát huy sức mạnh tổng
hợp trong nước, vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng nhằm tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ quốc tế, không để các thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách cô
lập.
Ba là, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên cơ sở đó phát huy
sức mạnh chiến tranh nhân dân địa phương, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ
trang tại chỗ (bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân
du kích) kết hợp với sức mạnh hậu phương cả nước tạo thành những "trường thành
thép” sẵn sàng đánh trả có hiệu quả mọi cuộc tiến công từ bên ngoài ngay thời
gian đầu.
Bốn là, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam
"lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều” với nghệ thuật quân sự hiện đại (phương
thức tác chiến chính quy), đồng thời biết khai thác, phát huy tư tưởng nhân văn
"lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của cha ông thuở
trước kết hợp với chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí
Minh./.
TheoVietnamplus