Còn nhớ, trong những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, trong những vấn đề Người quan tâm, Người đặc biệt chú ý đến trẻ em và phụ nữ ở các thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng, Người cho đó là những lớp người khổ nhất trong những người khổ cực.
Người căm ghét bọn thống trị luôn "đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người phụ nữ... và xúc phạm tới phong hóa, trinh tiết và đời sống của họ" (Bản án chế độ thực dân). Mỗi một phụ nữ, một trẻ em bị đánh, bị giết đều làm tác giả đau đớn. Người đã từng thốt lên: "Một em bé bị lột trần truồng, một thiếu nữ ruột gan lòi ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình".
Có gì xúc động hơn, khi thấy nỗi lòng Người đồng cảm với nỗi lòng của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng trong vụ Pháp giết hại những người Việt Nam tại Khám lớn Sài Gòn. Người đã từng lên tiếng vạch trần những hành động dã man của lũ mặt người dạ thú với những người phụ nữ "Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược của bọn người xâm lược...", chúng "mắng một phụ nữ Nam An là con đĩ, con bú dù... Ngay giữa chợ Bến Thành ở Sài Gòn... bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người phụ nữ bản xứ...".
Đại biểu phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang về thăm Hà Nội vui mừng được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh (25-11-1965).
Có phải chăng đó chính là tình cảm, là động lực giúp Người vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong cuộc hành trình 30 năm trời tìm đường cứu nước để rồi, khi trở về đất Mẹ, Người không phút ngơi nghỉ để cùng Ðảng và nhân dân ta làm nên sự tích thần kỳ: Lật nhào chế độ phong kiến thực dân, dựng nên một nước Việt Nam độc lập dân tộc và dân chủ tiến bộ.
Ngay trong cuộc Tuyển cử phổ thông đầu phiếu ngày 6-1-1946, Người vui sướng nhận ra rằng "Phụ nữ là tầng lớp đi bỏ phiếu hăng hái nhất". Sau khi đã trở thành Chủ tịch nước, Người vẫn luôn hướng tình cảm của mình đối với những người phụ nữ. Năm 1952, nhân kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ, Người đã gửi thư ngợi khen: "Non sông gấm vóc Việt Nam do Phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ".
Những năm tháng tại đầu nguồn Pác Bó, trong diễn ca "Lịch sử nước ta", Người đã khẳng định: "Phụ nữ ta chẳng tầm thường/ Ðánh Ðông, dẹp Bắc làm gương để đời"; "Hai Bà Trưng có đại tài/ Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian/ Ra tay khôi phục giang san/ Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta". Và hình ảnh Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng cũng được Người khắc họa: "Tỉnh Thanh Hóa có một bà/Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi/ Tài năng dũng cảm hơn người/ Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương". Người từng căn dặn: "Hai Bà Trưng để lại cho phụ nữ Việt Nam một truyền thống vẻ vang là dũng cảm kháng chiến...", thì: Phụ nữ Việt Nam ta cũng phải xứng đáng là con cháu Hai Bà.
Và vì thế Người luôn tự hào rằng "Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng... Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng", Cả trong kháng chiến chống Pháp. Rồi chống Mỹ "ta cũng có nhiều anh hùng là phụ nữ". "Từ trước đến nay phụ nữ Việt Nam ta có rất nhiều đóng góp cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính, phụ nữ ta đã có nhiều tiến bộ". Tuy nhiên, "Bác còn mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa".
Người còn chỉ ra rằng "Hiện nay, trong các ngành, số phụ nữ tham gia còn ít. Ðảng và Chính phủ rất hoan nghênh, sẵn sàng cất nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng. Muốn vậy, bản thân phụ nữ phải: Gắng học tập, chính trị, học tập văn hóa kỹ thuật; nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ XHCN; Hăng hái thi đua thực hiện "Cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình". Chúc chị em phụ nữ cố gắng học tập, tiến bộ nhiều, tiến bộ mãi để xứng đáng làm chủ nước nhà" (Bài nói chuyện tại Ðại hội phụ nữ tích cực Thủ đô lần thứ hai-8-3-1960).
Với Người, việc cất nhắc và giao trọng trách cho phụ nữ phải gắn liền với việc giải phóng phụ nữ, bởi "Ðể xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải thật sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ". Thế nhưng "Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, phụ nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti...phải có ý chí tự cường tự lập". Bởi vậy, những gì trái với quy tắc nam nữ bình đẳng Người đều có thái độ kiên quyết phản đối.
Chuyện rằng, tháng 1-1963, trong phiên họp của Bộ Chính trị để bàn về những vấn đề quan trọng của cách mạng, Người đã đọc một bức thư của một phụ nữ trong cuộc họp này, đó là bức thư một nữ cán bộ cách mạng ở Vĩnh Phúc bị chồng đối xử đánh đập tàn tệ mà không được chính quyền đoàn thể can thiệp, cán bộ đảng viên thì lẩn tránh. Bác xem đó là tội ác, là tàn dư còn lại tồi tệ nhất của chế độ cũ và yêu cầu cuộc họp ưu tiên giải quyết trường hợp này trước.
Những người phụ nữ Việt Nam thật sự xúc động và tri ân Người khi biết rằng, vào những năm tháng cuối cùng của đời mình, Người đã để lại cho chúng ta bản Di chúc quý giá, trong đó có những dòng viết riêng cho phụ nữ Việt Nam.
Sinh thời, bác Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác kể lại rằng: "Vào tháng 5-1968, Bác Hồ đọc lại bản Di chúc và thấy cần phải viết thêm mấy điểm về phụ nữ". Thế rồi, trong bản Di chúc Bác viết: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ" (Di chúc). Chỉ thế thôi, nhưng đó vừa là tình cảm tràn đầy, vừa là huấn thị thiêng liêng của Bác.
Trong tác phẩm "Ðường Kách mệnh", Bác cũng từng viết: "Ông Các Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi: "ông Lê-nin nói: Ðảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công...". Ôi, những dấu ấn đó của Người vẫn còn in mãi trong ta...
(Theo Báo Nhân dân điện tử)