Người dân xã Hiền Lương (Đà Bắc) đầu tư nuôi cá lồng bè trên vùng hồ sông Đà mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Trên địa bàn tỉnh có 5 con sông chảy qua. Trong đó, sông Đà dài nhất với 151 km. Hồ chứa thủy điện sông Đà có tổng diện tích mặt nước trên 16.700 ha, riêng địa phận Hòa Bình có diện tích mặt nước 8.892 ha thuộc 19 xã ven hồ. Hồ có dạng lòng máng, xung quanh bao bọc bởi các dãy đồi, núi cao. Đáy hồ sâu với nguồn lợi thủy sản phong phú cả về giống và loài. Nguồn thức ăn phong phú, ngoài sinh vật phù du, xung quanh hồ còn có hàng nghìn ha thảm thực vật và rừng phòng hộ với độ che phủ cao, hàng năm cung cấp lượng lớn các sản phẩm hữu cơ cho hồ. Đây được coi là kho tàng quý báu về thủy sinh vật và nguồn lợi thủy sản đặc trưng của vùng Tây Bắc. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có hàng trăm hồ chứa thủy lợi rất thuận lợi cho việc nuôi cá lồng bè. Thống kê toàn tỉnh có trên 14.560 ha mặt nước ao, hồ, công trình thủy lợi, thủy điện. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi, tiềm năng phát triển thủy sản của Hòa Bình luôn được đánh giá cao, hứa hẹn trở thành động lực quan trọng thúc đẩy ngành kinh tế nông nghiệp nếu được khai thác xứng tầm.
Đồng chí Hoàng Văn Son, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản khẳng định: Trong nỗ lực triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển ngành thủy sản, tỉnh ta rất quan tâm đến việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển nuôi cá lồng bè trên hồ chứa sông Đà. Đây được coi là giải pháp đột phá nhằm khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của tỉnh đối với các sản phẩm chăn nuôi thủy sản có ưu thế và khả năng cạnh tranh cao. Định hướng xuyên suốt là phát triển thành các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung quy mô lớn, đạt các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm, từ đó nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững ngành thủy sản.
Trên thực tế, nghề nuôi cá lồng ở tỉnh ta đã hình thành và phát triển từ lâu, nhưng được phát triển thành phong trào từ những năm 1990 của thế kỷ XX, khi hồ thủy điện sông Đà tích nước ổn định. Khi đó, việc nuôi cá lồng bè chủ yếu do các hộ dân sống quanh lưu vực hồ với các đối tượng nuôi truyền thống, giá trị thấp, hiệu quả kinh tế chưa cao, con giống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, quy mô nuôi nhỏ lẻ, lồng bè thô sơ chưa có sự đầu tư bài bản tương xứng với tiềm năng to lớn của nghề này.
Theo thống kê, từ trước đến năm 2013, toàn tỉnh có khoảng 1.250 lồng bè nuôi cá. Kể từ năm 2013 đến nay, số lượng lồng cá không ngừng tăng lên. Đến cuối năm 2017, toàn tỉnh có khoảng 4.050 lồng, tương đương 220 nghìn m3, tổng sản lượng đạt 7.700 tấn, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho trên 5.000 lao động.
Tham gia nuôi cá lồng hiện nay không chỉ là những hộ dân ven hồ mà đã có nhiều cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh. Đến thời điểm này, toàn tỉnh có 35 doanh nghiệp, HTX, tổ hợp tác, chủ trang trại mạnh dạn đầu tư nuôi cá lồng trên vùng hồ sông Đà. Trong đó có các doanh nghiệp đang tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư, điển hình như Công ty Cổ phần Cá sạch Sông Đà đầu tư nuôi cá lăng vàng, trắm đen mỗi tháng cung cấp cho thị trường Hà Nội trên 35 tấn cá thịt. Công ty Thủy sản Hải Đăng đầu tư 180 lồng cá, mỗi tháng cung cấp cho thị trường 30 - 40 tấn cá thịt các loại. Công ty Việt Đức đầu tư trên 70 tỷ đồng nuôi cá tầm trong lồng...
Thống kê sơ bộ, tổng số vốn do các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi cá lồng trên hồ chứa sông Đà ước đạt trên 500 tỷ đồng. Theo phản hồi của các doanh nghiệp này, nuôi cá lồng trên vùng hồ sông Đà thực sự có hiệu quả. Nếu quản lý, chăm sóc tốt, mỗi lồng nuôi cá có thể cho lợi nhuận từ 30 - 40% sau trừ chi phí. Chính vì vậy, hiện nay các doanh nghiệp đã mở rộng quy mô sản xuất, đối tượng nuôi là các loài cá đặc sản như chiên, lăng, tầm, bỗng, trắm đen... cho năng suất cao, chất lượng tốt.
Thống kê đến cuối năm 2017, toàn tỉnh có khoảng 2,68 nghìn ha mặt nước ao, hồ nuôi trồng thủy sản, 4 nghìn lồng nuôi cá; sản lượng đạt khoảng 7,2 nghìn tấn, trong đó nuôi trồng 5,6 nghìn tấn. Theo Trung tâm Giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản: Các hình thức nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh hiện nay phát triển khá đa dạng, trong đó, diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh có xu hướng tăng. Riêng đối với nuôi cá lồng bè trên sông và hồ chứa, qua khảo sát thực tế cho thấy phương thức nuôi chủ yếu hiện nay là quảng canh cải tiến, đối tượng nuôi chủ yếu là các loại cá truyền thống như trắm cỏ, trôi, mè, chép, rô phi đơn tính, chim trắng... chiếm khoảng 80 - 90% sản lượng và diện tích nuôi. Còn các đối tượng khác có giá trị kinh tế cao như cá tầm, lăng, trắm đen, điêu hồng, chép V1, ba ba..., diện tích và sản lượng nuôi mới chỉ chiếm từ 10 - 20%. Định hướng trong thời gian tới, các địa phương sẽ chú trọng phát triển các đối tượng này theo hình thức nuôi lồng bè thành các vùng chuyên canh tập trung, quy mô lớn và hiệu quả kinh tế cao, từ đó tạo sức bật mới trong chiến lược phát triển sản xuất ngành thủy sản.
Thu Trang