Tiếp tục chương trình làm việc của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27/1, Đại hội làm việc tại Hội trường, thảo luận về các dự thảo Văn kiện. Thay mặt Đoàn Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ điều hành phiên thảo luận. Sau đây là tổng hợp các ý kiến tham luận của các đại biểu trong phiên làm việc sáng ngày 27/1/2021.

MTTQ Việt Nam chung sức đồng lòng cùng nhân dân xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nguyện mang hết sức mình, vận động các tầng lớp nhân dân chung sức, đồng lòng, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, niềm tự hào, tự tôn dân tộc, tự tin, đổi mới, sáng tạo, hun đúc ý chí, bản lĩnh, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. 

Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tham luận tại Đại hội. Ảnh: VGP

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nêu rõ: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra trong không khí nhân dân cả nước phấn khởi, tự hào, trân trọng về những thành tựu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng của đất nước về phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, chính quyền và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Nhân dân thể hiện tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kỳ vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Thay mặt Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Trần Thanh Mẫn nhất trí cao với dự thảo báo cáo chính trị do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội; để làm rõ hơn một số nội dung trong dự thảo Báo cáo chính trị, đồng chí tham luận với chủ đề: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, đùm bọc lẫn nhau đã thấm sâu vào tình cảm và hành động của mỗi người dân đất Việt trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc đã tạo nguồn sức mạnh, lập nên những kỳ tích vẻ vang, là điều kiện cơ bản cho sự thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, cũng như công cuộc đổi mới xây dựng, phát triển đất nước ngày nay. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, để tổ chức Mặt trận thực hiện tốt nhiệm vụ: Tập hợp, xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động đã hướng vào phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững. Thông qua hoạt động giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nguyên tắc "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, các thành viên của Mặt trận đã xây dựng các mô hình nhân dân tự quản, hỗ trợ nhau trong sản xuất, kinh doanh, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, khuyến học, khuyến tài, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nhấn mạnh: "Mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung để các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, đồng bào ta ở nước ngoài phát huy lòng yêu nước, trí tuệ và khả năng của mình, góp phần tích cực xây dựng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 và thiên tai, bão lũ vừa qua, truyền thống yêu nước nồng nàn, tình nghĩa đồng bào sâu nặng, sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc một lần nữa được thể hiện đậm nét và mạnh mẽ”.

Theo đồng chí Trần Thanh Mẫn, qua thực tiễn hoạt động, có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và hoạt động của MTTQ Việt Nam.

Thứ nhất, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định để Mặt trận tập hợp được mọi lực lượng, xây dựng, củng cố, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, trong mọi hoạt động, hệ thống chính trị phải quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc", khơi dậy sức sáng tạo, sự ủng hộ của nhân dân, tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Thứ ba, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam và hiệp thương phối hợp thống nhất hành động của các tổ chức thành viên.

Thứ tư, quán triệt phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh, Mặt trận phải thường xuyên đổi mới phù hợp với thực tiễn.

Thứ năm, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết gắn với đấu tranh, có lý, có tình với các hành vi sai trái, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, đất nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, đặt ra nhiều vấn đề mới, sự phát triển đa dạng, năng động và yêu cầu cao hơn về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày một gia tăng; phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội diễn ra ngày càng sâu sắc.

Bên cạnh đó, tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên có mặt, có nơi còn diễn biến phức tạp; sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng nguy hiểm và tinh vi. Những thách thức đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đòi hỏi Mặt trận phải đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng tốt hơn trước những yêu cầu phát triển mạnh mẽ của đất nước. 

Về chủ quan, Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội cũng thẳng thắn nhìn nhận còn những hạn chế, đó là: Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; trong hoạt động, có việc chưa sâu sát, thiết thực, hiệu quả, chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới; việc phối hợp giải quyết những vấn đề bức xúc của dân có nơi chưa kịp thời; nhiều khi chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm, bản lĩnh, chính kiến.

Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, đề nghị cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, cả hệ thống chính trị cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam; thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển tài năng, sức sáng tạo, mang lại lợi ích cho đất nước.

Chính vì vậy, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đề nghị các ban, bộ, ngành, địa phương cần thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế-xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, chính sách tôn giáo và công tác dân tộc, tôn giáo; vận động đồng bào ta ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, đóng góp trí tuệ, tài năng, nguồn lực để xây dựng đất nước; thông qua các hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, hợp tác quốc tế, hình thành mặt trận rộng rãi, ủng hộ công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Trong thời gian tới, hoạt động của Mặt trận phải hướng mạnh về cơ sở, phát huy tốt hơn vai trò của các tổ chức thành viên, của Ban công tác Mặt trận ở hơn 100.000 địa bàn dân cư trong cả nước. Tập hợp sức mạnh của 100 triệu đồng bào trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, cùng hiệp lực, quyết tâm, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Lắng nghe ý kiến nhân dân, kịp thời phản ánh, tham mưu đối với cấp ủy, phối hợp cùng chính quyền giải quyết các vấn đề thiết thực liên quan đến đời sống nhân dân; tiếp tục giữ vai trò nòng cốt hiệp thương phối hợp thống nhất hành động cùng các tổ chức thành viên trong việc thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước; đẩy mạnh hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tham gia hiệu quả hơn trong xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam dẫn lời Bác Hồ kính yêu: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, "Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, đội ngũ cán bộ Mặt trận phải có năng lực, trình độ, tâm huyết, trách nhiệm, biết "lắng nghe dân nói, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin".

Với niềm tin vững chắc vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh của khối đại đoàn kết - khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, niềm tự hào toàn dân tộc, trân trọng và phát huy những thành quả mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn khẳng định Mặt trận nguyện mang hết sức mình, vận động các tầng lớp nhân dân chung sức chung lòng, tự tin, đổi mới, sáng tạo, hun đúc ý chí, bản lĩnh, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.



Củng cố tiềm lực nền tài chính quốc gia


Phát biểu tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, sáng 27/1, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết với những bước phát triển tương đối toàn diện ở tất cả các khâu, các lĩnh vực, nền tài chính quốc gia đã có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội thời gian qua.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng phát biểu tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Theo Bộ trưởng, một trong những khía cạnh quan trọng thể hiện sự thịnh vượng, phồn vinh của một quốc gia là sức mạnh của nền tài chính quốc gia; bao gồm cả tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tổ chức và tài chính dân cư; là nền tảng đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, nhiệm kỳ vừa qua, nền tài chính quốc gia tiếp tục có những bước phát triển quan trọng, có đóng góp quyết định vào các thành quả của đất nước, thể hiện ở một số điểm lớn.

Trước hết, ngành tài chính đã đi tiên phong trong quá trình hoàn thiện thể chế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu lại đồng bộ ngân sách nhà nước (NSNN), nợ công, thúc đẩy quá trình đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế, hội nhập, cải thiện các cân đối lớn, tăng cường ổn định vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự xã hội, chủ quyền dân tộc.

"Mặc dù thực hiện điều chỉnh giảm nghĩa vụ thu, cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các khoản phí, lệ phí không phù hợp và đặc biệt là tác động của đại dịch COVID-19 trong năm 2020, nhưng quy mô thu NSNN cả giai đoạn 2016-2020 vẫn gấp 1,6 lần giai đoạn 2011-2015, đạt trên 25% GDP, vượt mục tiêu đề ra tại Văn kiện trình Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng (20-21% GDP), vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị (20-21% GDP) và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội (không thấp hơn 23,5% GDP)”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết.

Cơ cấu thu hiện đại hơn, bền vững hơn, phù hợp với trình độ phát triển, hội nhập của nền kinh tế. Tỷ trọng thu nội địa tăng dần, năm 2020 đạt trên 85%, tính chung cả giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 82% tổng thu NSNN, tăng đáng kể so với mức 68,7% giai đoạn 2011-2015, thu ngân sách từ tài nguyên khoáng sản và từ thuế xuất, nhập khẩu giảm từ mức bình quân 30% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 17,8% giai đoạn 2016-2020, trong đó tỷ trọng thu dầu thô trong tổng thu NSNN năm 2020 chỉ còn 2,3%, giảm mạnh so với mức 15-18% những năm 2011-2012.

Hệ thống pháp luật về quản lý, phân bổ, sử dụng, kiểm soát chi NSNN tiếp tục được hoàn thiện theo hướng tăng cường phân cấp, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả. Chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, quy mô chi bình quân 05 năm 2016-2020 khoảng 27,5% GDP (giai đoạn 2011-2015 là 29,5% GDP); cơ cấu lại, ưu tiên nguồn lực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các đột phá chiến lược của nền kinh tế về hạ tầng, về nguồn nhân lực.

Tỷ trọng bố trí chi đầu tư phát triển nguồn NSNN trong giai đoạn 2016-2020 đạt 28-29% tổng chi NSNN (mục tiêu là 25-26%), tập trung cho các công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn, nâng cao khả năng kết nối giữa các vùng, miền trong cả nước và giao thương quốc tế, cải thiện mạnh mẽ hạ tầng nông nghiệp, nông thôn,... Chỉ số cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam về chất lượng cơ sở hạ tầng tăng 22 bậc (từ 99/140 năm 2015 lên 77/141 năm 2019).

Bộ trưởng Tài chính cũng nêu rõ các kết quả đáng chú ý khác như đã quản lý, điều hành chặt chẽ, giảm bội chi NSNN, bình quân các năm 2016-2019 ở mức 3,5% GDP, trong đó, các năm 2017-2019 bội chi còn 2,95% GDP, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,4% GDP.

Tốc độ tăng nợ công giảm từ trung bình 18,1%/năm (gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011- 2015) xuống còn 6,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Cơ cấu nợ chuyển biến tích cực, quy mô nợ công giảm từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống 55,8% GDP vào cuối năm 2020; nợ Chính phủ giảm từ mức 52,7% năm 2016 xuống 49,6% GDP; tỷ trọng nợ trong nước tăng từ 38,9% năm 2011 lên khoảng 63% năm 2020, kéo dài kỳ hạn phát hành, lãi suất vay giảm sâu, bảo đảm an toàn, an ninh tài chính quốc gia.

Quy mô huy động vốn qua thị trường chứng khoán ước đạt hơn 1,5 triệu tỷ đồng, tăng hơn 29% so với giai đoạn 2011- 2015, đóng góp ngày càng lớn vào tổng đầu tư xã hội. Giai đoạn 2016 - 2020, tổng tài sản của toàn thị trường tăng trưởng bình quân 19%/năm, ước đạt trên 526 nghìn tỷ đồng năm 2020; tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế tăng bình quân 19,4%/năm, ước đạt trên 226 nghìn tỷ đồng năm 2020; tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng bình quân 13,1%/năm, ước đạt trên 100 nghìn tỷ đồng năm 2020.

Triển khai Nghị quyết 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6, khóa XII, ngành Tài chính cũng đi tiên phong trong việc sắp xếp lại bộ máy, tinh gọn đội ngũ công chức, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy. Tính đến nay, Bộ Tài chính đã cắt giảm 4.328 đầu mối các đơn vị, giảm 6.460 chỉ tiêu biên chế (tương đương 8,7% so với năm 2015); dự kiến đến năm 2021, giảm được 10% so với năm 2015, theo đúng Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị.

Đồng thời triển khai chủ trương xây dựng chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số, ngành tài chính đã đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, 8 năm liên tiếp (kể từ năm 2013 đến năm 2020) dẫn đầu bảng xếp hạng Chỉ số tổng thể mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ.

Đến nay, các doanh nghiệp đã cơ bản thực hiện toàn bộ các thủ tục khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, thủ tục hải quan trên môi trường điện tử. Nhờ vậy, trong giai đoạn 2016-2020, đã giảm số giờ nộp thuế và bảo hiểm xã hội từ 872 giờ năm 2015 xuống còn 384 giờ năm 2020 (giảm 488 giờ); giảm thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu từ 21 ngày năm 2015 xuống còn 115-130 giờ năm 2020; chỉ số nộp thuế 5 năm tăng 64 bậc, riêng năm 2019 tăng 22 bậc, ngang bằng nhóm ASEAN 4; trong bảng xếp hạng chi phí tuân thủ 8 nhóm thủ tục hành chính từ thấp đến cao, thuế được xếp ở vị trí thứ nhất, hải quan được xếp ở vị trí thứ 3.

Khơi thông và phân bổ các nguồn lực tài chính theo tín hiệu thị trường

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nêu rõ, trên cơ sở kết quả đạt được, dự báo bối cảnh thời gian tới, để tiếp tục thực hiện hiệu quả vai trò định hướng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ của ngành tài chính trong giai đoạn tới là: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế tài chính, cơ cấu lại NSNN, nợ công; đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập theo Nghị quyết số 19, Hội nghị Trung ương 6 khóa XII; hoàn thiện việc sắp xếp khối doanh nghiệp nhà nước, đổi mới quản trị theo đúng Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 khóa XII; tiếp tục sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước, giảm biên chế đi cùng với cải cách, hiện đại hoá công tác quản lý; cải thiện mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả bộ máy hành chính, sự nghiệp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách; củng cố dư địa tài khóa, nâng cao khả năng chống chịu của nền tài chính quốc gia.

Trong đó, tập trung hoàn thiện, triển khai đồng bộ hệ thống chính sách giá cả, tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán, cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4,… khơi thông và phân bổ các nguồn lực tài chính theo tín hiệu thị trường, ưu tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo giá trị gia tăng cao, quản trị hiện đại, kết nối chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, đi đôi với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; chuyển dịch đầu tư từ chiều rộng sang chiều sâu, cạnh tranh, phát triển mạnh mẽ trong môi trường hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết FTA trước đây, đồng thời chủ động triển khai các FTA thế hệ mới (như CPTPP, EVFTA…).

Về thể chế quản lý NSNN, tập trung nghiên cứu, sửa đổi Luật NSNN, bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, ủy quyền theo hướng Chính phủ quản lý các cân đối lớn, giữ vai trò định hướng phát triển chung cho cả nước. Xây dựng cơ chế quản lý tài chính ngân sách phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của 05 đô thị trung tâm: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ.

Thứ hai, phát triển hệ thống thu hiện đại, gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước phù hợp với trình độ phát triển, hội nhập và thông lệ quốc tế, bao quát nguồn thu, hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội, bảo đảm tính trung lập, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh minh bạch, hiện đại, thuận tiện, điều tiết thu nhập hợp lý; đồng thời tăng tính bền vững, bảo đảm nguồn thu đáp ứng các nhu cầu quản lý, điều hành, phát triển nền kinh tế trong tình hình mới.

Thứ ba, đẩy mạnh cơ cấu lại chi NSNN trên cơ sở phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường, đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công lập, thực hiện "xã hội hóa” trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao và tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả; triển khai quản lý ngân sách trung hạn, theo kết quả thực hiện nhiệm vụ; gắn kết chặt chẽ chi đầu tư với chi thường xuyên; mở rộng việc áp dụng các nguyên tắc thị trường trong quản lý, cung ứng dịch vụ hành chính, sự nghiệp công, quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công; cải thiện mạnh mẽ hiệu quả, hiệu lực chi tiêu công.

Quản lý chặt chẽ bội chi ngân sách và nợ công, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, tăng cường ổn định vĩ mô vững chắc; cải thiện dư địa chính sách tài khóa, đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững.

Thứ tư, quyết liệt thực hiện các mục tiêu Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Thứ năm, khẩn trương hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nhất là vấn đề xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu; tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, quản lý và sử dụng vốn nhà nước. Đến năm 2025, hoàn thành việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước, tinh gọn số lượng, tập trung nguồn lực đầu tư nhà nước vào các doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh; cơ cấu lại, phát triển các doanh nghiệp này theo cơ chế thị trường, công nghệ hiện đại, quản trị tiên tiến, minh bạch, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế; xử lý cơ bản xong những yếu kém, thua lỗ, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện nay. Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng cho cho đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia.

Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công khai, minh bạch; phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành xây dựng Chính phủ điện tử, chính phủ số ở những lĩnh vực tài chính quốc gia, tài chính công trọng yếu (NSNN, thuế, hải quan, chứng khoán, quản trị vốn nhà nước tại doanh nghiệp…).

Thực hiện hiệu quả nguyên tắc chi trong khả năng nguồn lực, vay trong khả năng trả nợ, gắn trách nhiệm quản lý huy động, sử dụng, với quản lý bội chi, trả nợ và trách nhiệm giải trình; hoàn thiệu cơ sở dữ liệu về thu, chi, nợ công, tài sản công, tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý, điều hành tài chính công ở cả phạm vi vĩ mô và vi mô; nâng cao tính công khai, minh bạch; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...

Nâng cao năng lực, chất lượng và mở rộng hoạt động của công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán tài chính theo nguyên tắc rủi ro và ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường hiệu lực của hệ thống giám sát nội bộ, vai trò của công tác giám sát từ xa; phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa phương để xử lý có hiệu quả các kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thu hồi tối đa cho Nhà nước tiền, tài sản bị vi phạm, chiếm đoạt.

  


Thực hiện có hiệu quả công tác cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền


Sáng 27/1, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, thay mặt Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC), đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án Thường trực TANDTC đã trình bày tham luận với chủ đề "Phát huy phương châm gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân; thực hiện có hiệu quả công tác cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.  

Đồng chí Lê Hồng Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh án Thường trực TANDTC trình bày tham luận tại Đại hội. Ảnh: VGP

Bày tỏ sự nhất trí cao với Báo cáo chính trị và các văn kiện trình Đại hội, đồng chí Lê Hồng Quang nhấn mạnh, trải qua 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã tổng kết và xác định: Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Trong đó, xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ, góp phần hiện thực hoá Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế là nội dung quan trọng, là nhiệm vụ chiến lược của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Nhìn lại 15 năm gần đây, các tòa án luôn phải giải quyết khối lượng công việc năm sau cao hơn năm trước từ 8-10%/năm. Năm 2020, Tòa án các cấp thụ lý 602.000 vụ việc các loại, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2005 và gấp hơn 2 lần so với năm 2010. Mặc dù số lượng biên chế của các tòa án cơ bản không thay đổi, đặc biệt trong bối cảnh tinh giản 10% biên chế theo Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhưng tòa án các cấp đã rất nỗ lực hoàn thành chỉ tiêu Quốc hội đề ra; hằng năm giải quyết, xét xử từ 95-98% số vụ việc thụ lý. Có được thành tích đó, bên cạnh những nỗ lực của toàn hệ thống tòa án, còn phải kể đến yếu tố quan trọng là kết quả thực hiện cải cách tư pháp trong hệ thống tòa án.

Quán triệt sâu sắc và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiện thực hóa mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đồng thời ý thức được rằng "công lý bị trì hoãn là công lý bị từ chối”; thời gian qua, các hoạt động của Tòa án đã được đổi mới rõ rệt theo hướng phục vụ người dân tốt hơn.

Hệ thống pháp luật về tố tụng và tổ chức tòa án đã được hoàn thiện theo hướng tăng cường tranh tụng, đảm bảo độc lập tư pháp, áp dụng thủ tục rút gọn đối với một số vụ việc đơn giản; cơ chế hòa giải, đối thoại các tranh chấp được tăng cường và triển khai hiệu quả; các thủ tục hành chính-tư pháp được đơn giản hóa tạo thuận lợi cho người dân; quy trình xử lý các yêu cầu của người dân được hiệu chỉnh theo cơ chế một cửa, đảm bảo nhanh chóng, hiệu quả; đề cao sự tham gia tích cực, chủ động của người dân trong hoạt động tư pháp và tạo điều kiện để họ thực hiện và thụ hưởng đầy đủ các quyền trong tố tụng; các cơ chế kỹ thuật, pháp lý để tiếp cận công lý của người dân được đa dạng hóa; các phán quyết của tòa án được công khai, đảm bảo tính nghiêm minh về pháp luật và định hướng hành vi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.

Chất lượng đội ngũ cán bộ ngày càng được nâng cao, cơ sở vật chất được trang bị tốt hơn, công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ được quan tâm, góp phần thúc đẩy nhiệt huyết cống hiến của đội ngũ thẩm phán và cán bộ tòa án. Những kết quả đó đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp phục vụ nhân dân như Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị đề ra.

Đóng góp vào những thành công nổi bật nêu trên, bên cạnh vai trò lãnh đạo toàn diện, thống nhất và trực tiếp của Đảng là sự nhận thức đúng đắn và việc vận dụng sáng tạo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ tư pháp, đó là "phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Đây chính là những nhân tố quyết định để nền tư pháp nước ta phát triển đúng hướng, đảm bảo duy trì bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đặt ra.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc vận dụng và phát huy phương châm "lấy dân làm gốc” trong hoạt động tư pháp vẫn còn những tồn tại nhất định, như: Việc cụ thể hóa quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp tuy có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp chưa phát huy được thế mạnh; niềm tin của người dân đối với cơ quan tư pháp còn khiêm tốn; hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về tố tụng tư pháp, còn bất cập, chi phí tuân thủ cao gây lãng phí nguồn lực của xã hội…

Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, kể cả khách quan và chủ quan; song nguyên nhân trước hết là do việc nhận thức, quán triệt, thực hiện phương châm "gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” vẫn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất. Do vậy, khi triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp, có lúc, có nơi thiếu quyết tâm, còn lúng túng và bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ.

Từ thực tiễn quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; phát huy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư pháp thời gian qua, ngành tòa án rút ra một số bài học kinh nghiệm, là: Phải luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm quan điểm "Nhân dân là gốc", "Nhân dân là trung tâm” của hoạt động tư pháp, quyền tư pháp. Mọi chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Lấy phương châm phục vụ nhân dân, vì hạnh phúc và lợi ích của nhân dân làm mục tiêu cải cách. Coi việc tăng cường niềm tin của nhân dân đối với cơ quan tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược cải cách tư pháp. 

Kế thừa những thành quả của việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, cũng như kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị khóa XII, đồng chí Lê Hồng Quang cho rằng cần thiết phải xây dựng và ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược cải cách tư pháp mới trong giai đoạn 2020-2030, định hướng đến năm 2045 làm cơ sở về chính trị, quyết tâm đổi mới của Đảng trong lĩnh vực tư pháp.

Trên tinh thần tiếp tục phát huy phương châm "gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tại Đại hội này, Ban cán sự Đảng TAND Tối cao đề xuất một số quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp giai đoạn sau năm 2020 là: Kiên định, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, thống nhất và trực tiếp đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp để bảo đảm thực hiện hiệu quả trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Xác định cải cách tư pháp là động lực quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp và công tác phòng chống tham nhũng do Đảng lãnh đạo; là nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ, giữ vững, phát huy thành tựu phát triển của đất nước thời gian qua; đẩy nhanh việc hoàn thiện các thiết chế của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng nền tư pháp vì nhân dân phục vụ. Hoạt động tư pháp phải đặt người dân vào vị trí trung tâm, lấy tinh thần phục vụ nhân dân làm tôn chỉ, mục đích hoạt động. Tiếp tục đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động theo hướng đảm bảo trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đúng như bản chất "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” của nền tư pháp nước nhà. Coi đây là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của cải cách tư pháp.

Tăng cường niềm tin của người dân vào công lý và nền tư pháp. Hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm các điều kiện về pháp lý và thực tế để người dân thực hiện đầy đủ, toàn diện các quyền của mình trong tố tụng; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân thông qua hoạt động tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện chế định Hội thẩm nhân dân theo hướng hạn chế tính hình thức, tăng cường tính nhân dân, dân chủ; nghiên cứu, tiếp thu nhân tố hợp lý của chế định Bồi thẩm đoàn.

Phát huy vai trò và hoàn thiện cơ chế giám sát đặc thù của cơ quan dân cử, của công luận và của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Đề cao trách nhiệm tự giám sát trong nội bộ của cơ quan tư pháp; coi trọng và tăng cường sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường công khai, minh bạch,thông tin kịp thời cho người dân; tích cực đối thoại, giải trình và lắng nghe nhân dân để gần dân hơn, hiểu dân nhiều hơn, giúp dân được nhiều hơn và học hỏi thêm được nhiều điều từ nhân dân. Tận dụng những lợi thế của công nghệ, hướng tới xây dựng Tòa án thông minh; công khai, minh bạch hoạt động tư pháp; tăng cường khả năng tiếp cận công lý của người dân; giảm bớt thủ tục và chi phí xã hội không cần thiết.

Kế thừa và phát huy thành tựu, kinh nghiệm cải cách tư pháp đã đạt được; hướng nhiệm vụ cải cách tư pháp đi vào chiều sâu; tập trung giải quyết những vấn đề, nhiệm vụ có tính chất cốt lõi, nhiệm vụ chưa hoàn thành; tiếp thu những thành tựu khoa học pháp lý mới, tiến bộ của thế giới để kịp thời tháo gỡ những bất cập của hệ thống pháp luật và nền tư pháp hiện nay.

Xây dựng cơ chế đánh giá phù hợp để hạn chế sự tác động, áp lực không chính đáng từ những thiết chế, chủ thể trong xã hội đối với hoạt động tư pháp; giảm thiểu những ảnh hưởng đến tính độc lập của cơ quan tư pháp và việc thực hiện nghiêm nguyên tắc "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, cũng như sự vô tư, khách quan, liêm chính của hệ thống Tòa án nhân dân.

"Ban cán sự Đảng, lãnh đạo TANDTC tin tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo, sự quan tâm thường xuyên, sâu sát của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội; sự phối hợp chặt chẽ, cũng như hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp ủy Đảng, đặc biệt là tin tưởng, ủng hộ của đồng bào cả nước, hệ thống tòa án sẽ tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết, chủ trương của Đảng, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, đồng chí Lê Hồng Quang phát biểu./.


Hà Nội năm 2045: Kết nối toàn cầu, có sức cạnh tranh quốc tế


Phát biểu tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, sáng 27/1, Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội Nguyễn Văn Phong nêu rõ 5 định hướng lớn và 3 khâu đột phá của Thành phố thời gian tới, với mục tiêu đến năm 2045, Hà Nội là thành phố kết nối toàn cầu, có sức cạnh tranh quốc tế, GRDP/người đạt trên 36.000 USD.

Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội Nguyễn Văn Phong phát biểu tại Đại hội Đảng lần thứ XIII. Ảnh: VGP

Theo ông Nguyễn Văn Phong, nhìn lại chặng đường đã qua, vui mừng trước những thành tựu và tiến bộ đã đạt được, Đảng bộ và nhân dân TP. Hà Nội không tự mãn, luôn trăn trở về những việc chưa làm được, những yếu kém, khuyết điểm trong nhiều lĩnh vực.

Nhìn thẳng yếu kém, khuyết điểm

Kinh tế Thủ đô tuy đã có sự tăng trưởng khá về quy mô và tốc độ nhưng chất lượng và tính bền vững chưa cao.

Thành phố cũng chưa khai thác, phát huy tốt các nguồn lực, tiềm năng và lợi thế trên địa bàn Thủ đô. Về công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị, trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường có một số mặt còn hạn chế, lúng túng, bị động, chưa theo kịp thực tiễn, chưa đạt yêu cầu.

Cải cách hành chính có những tiến bộ vượt bậc, song tính chủ động, năng động của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, ý thức, trách nhiệm, thái độ phục vụ người dân, doanh nghiệp của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tốt, đâu đó vẫn còn để xảy ra những vấn đề bức xúc của dân.

Các chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính, hiệu quả quản trị và hành chính công còn ở vị trí thấp so với cả nước. 

Những chuyển biến trên các lĩnh vực văn hóa-xã hội, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ còn chậm, chưa tương xứng với sự phát triển của Thủ đô. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp uỷ, tổ chức đảng còn thấp, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình ở một số cấp uỷ, tổ chức Đảng chưa cao. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội ở một số cơ sở còn hạn chế…

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô đã xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, xây dựng Đảng bộ thành phố có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao và hệ thống chính trị-xã hội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu; phát triển nhanh và bền vững Thủ đô theo hướng đô thị xanh, thành phố thông minh, hiện đại, có sức cạnh tranh cao trong nước và khu vực; cơ bản hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa Thủ đô, GRDP/người đạt 8.300-8.500 USD.

Đến năm 2030, Hà Nội trở thành thành phố "Xanh - Thông minh - Hiện đại”; phát triển năng động, hiệu quả, có sức cạnh tranh khu vực và quốc tế; đến năm 2045, Hà Nội có chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, bền vững, là thành phố kết nối toàn cầu, có sức cạnh tranh quốc tế, GRDP/người đạt trên 36.000 USD.

5 định hướng lớn và 3 khâu đột phá

Lãnh đạo Thành uỷ Hà Nội cho biết thành phố sẽ tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu, bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hiện có hiệu quả việc thí điểm tổ chức thành công mô hình chính quyền đô thị, củng cố chính quyền nông thôn.

Tranh thủ thời cơ từ hội nhập quốc tế, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế dựa trên ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo gắn với thực hiện đồng bộ 3 đột phá chiến lược. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cơ chế, chính sách để khai thác tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển Thủ đô. Sớm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách tài chính-ngân sách đặc thù đối với TP.  Hà Nội. Đẩy mạnh cải cách hành chính; tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực chỉ số cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế theo các chuẩn mực của OECD.

Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá-xã hội với bảo vệ tài nguyên, môi trường. Quản trị xã hội hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội, chất lượng cuộc sống của người dân Thủ đô, giảm chênh lệch mức sống giữa khu vực đô thị và nông thôn. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô và hội nhập quốc tế. Chú trọng phát triển văn hóa và con người Hà Nội, là sức mạnh nội sinh, động lực tinh thần to lớn để phát triển Thủ đô.

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị, dân cư, trật tự xây dựng, an toàn giao thông, đảm bảo kỷ cương, văn minh đô thị. Nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉnh trang, phát triển, hiện đại hóa đô thị gắn với phát triển kinh tế đô thị theo hướng bền vững. Tiếp tục đẩy mạnh chất lượng xây dựng nông thôn mới, cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo cho được chuyển biến căn bản đối với các vấn đề dân sinh cấp bách về giảm thiểu ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông... Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội.

TP. Hà Nội sẽ tiếp tục tập trung vào 3 khâu đột phá trên các lĩnh vực.

Một là, ưu tiên hiện đại hóa, phát triển nhanh và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng các công trình tiêu biểu, không gian kiến trúc cảnh quan đặc sắc, mang đặc trưng của Thủ đô. Tập trung phát triển đồng bộ hạ tầng giao thông kết nối đô thị trung tâm với khu vực ngoại thành, các đô thị vệ tinh, các tỉnh, thành phố trong vùng Thủ đô. Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng dữ liệu…, kết nối liên thông, đồng bộ và thống nhất, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách; tăng cường công tác tổ chức thực thi pháp luật, nâng cao hiệu quả quản trị xã hội, quản lý đô thị; cơ bản hoàn thành xây dựng chính quyền điện tử, tiến tới chính quyền số. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về kỷ luật, kỷ cương, ý thức, trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả phục vụ doanh nghiệp và nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Ba là, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, nhân lực quản lý xã hội, quản trị kinh tế, nhân lực ngành văn hóa, du lịch…Xây dựng và phát triển hệ sinh thái học tập sáng tạo, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; thu hút, trọng dụng nhân tài trong và ngoài nước, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội.

Khai thác, phát huy tối đa tài nguyên chất xám, nguồn lực trí tuệ của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trên địa bàn Thành phố. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng Thủ đô thành nơi đáng sống. Đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đưa văn hóa và con người Hà Nội thực sự trở thành giá trị tinh thần to lớn, nguồn lực quan trọng quyết định phát triển Thủ đô.


Chú trọng đổi mới công tác dân vận, xây dựng lòng dân hướng về Đảng


Tham luận tại Đại hội XIII của Đảng vào sáng 27/1, đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương cho rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo, với quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương tham luận tại Đại hội XIII. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Một trong những bài học quan trọng, góp phần làm nên những thành tựu to lớn xuyên suốt chiều dài lịch sử là bài học "Lấy dân làm gốc”, phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là tư tưởng xuyên suốt góp phần cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, vượt qua mọi khó khăn và đạt được nhiều thắng lợi.

Công tác dân vận của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng có những nội dung, phương thức khác nhau, nhưng đều hướng đến mục tiêu quan trọng là tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân với Đảng; vận động, thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, khơi dậy tinh thần yêu nước, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho quá trình phát triển đất nước.

Đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh cho rằng, trước đòi hỏi của thực tiễn và mục tiêu phát triển bền vững của Đảng, đất nước, công tác vận động nhân dân càng phải chú trọng và đổi mới mạnh mẽ, xây dựng lòng dân hướng về Đảng, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo nên sự đồng lòng trong các phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh nhấn mạnh, các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm  thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp như: Tiếp tục đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương công tác dân vận của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng liên quan đến công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phù hợp với tình hình mới; bảo đảm các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước liên quan đến cuộc sống người dân phải sát thực tiễn, khả thi và bố trí đủ nguồn lực để thực hiện hiệu quả.

Phát huy hiệu quả cơ chế phối hợp liên ngành thông qua Hội đồng công tác quần chúng Trung ương, Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, các hoạt động giao ban, hội nghị chuyên đề... để bao quát toàn diện các lĩnh vực, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm đồng bộ cả hệ thống chính trị đối với công tác dân vận.

Các cấp ủy, tổ chức Đảng chú trọng việc tổ chức triển khai quán triệt sâu sắc các văn bản về công tác dân vận, tạo nhận thức thống nhất, đồng bộ. Xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể có trọng tâm, trọng điểm, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, tạo thuận lợi cho người dân hiểu, đồng thuận, chấp hành trong quá trình triển khai.

Tiếp tục thực hiện chủ trương kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực sự là công bộc của dân, tận tụy phục vụ nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, làm cho cả hệ thống chính trị, đặc biệt là chính quyền các cấp, thực sự vì nhân dân phục vụ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong mối quan hệ với nhân dân; nâng cao chất lượng chỉ đạo của cấp ủy các cấp về công tác dân vận.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động nhân dân sát với thực tiễn, có tính thuyết phục cao, tạo sự đồng thuận trong nhân dân để thực hiện có hiệu quả, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, vận động tương tác với người dân; ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với điều kiện phát triển, trình độ dân trí và môi trường sống của các tầng lớp nhân dân một cách phù hợp.

Thường xuyên sâu sát, gần gũi nắm bắt tình hình, những vấn đề bức xúc trong nhân dân để có nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp, kịp thời, nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Qua đó, chủ động dự báo, đánh giá xu hướng của dư luận xã hội; vận động nhân dân nhận thức đúng, phối hợp để phản bác các thông tin không đúng, luận điệu xuyên tạc, chia rẽ, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng đến quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền bằng hình thức phù hợp cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo. Tiếp tục đổi mới công tác dân vận ở vùng khó khăn, chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, giữ vững quốc phòng, an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Phát huy vai trò người có uy tín trong tuyên truyền, giải thích, vận động đồng bào trên địa bàn. Nâng cao hiệu quả vận động nhân dân bằng chính sách hợp lòng dân, đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp, người dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân; bằng sự gương mẫu chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu và bằng những hành động cụ thể, những hình ảnh đẹp của cả hệ thống chính trị chăm lo cho dân.

Nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp, trọng tâm là hoàn thiện cơ chế và nâng cao vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình quyết định chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân, có chính sách phù hợp với đặc điểm vùng miền, đặc thù của đời sống văn hóa người dân mỗi tỉnh nhằm tạo động lực, phát huy lợi thế so sánh và không tạo tâm lý ỷ lại trông chờ vào sự chăm lo, hỗ trợ của Chính phủ, quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, người đứng đầu các xã, phường, đơn vị, doanh nghiệp phải tôn trọng và nâng cao vai trò của người dân, người lao động trong việc tiếp cận thông tin, góp ý, hiến kế và quyết định những vấn đề được pháp luật quy định, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; có giải pháp ngăn ngừa từ xa việc bùng phát các điểm nóng trong nhân dân, không để phát sinh mâu thuẫn lợi ích trong quá trình phát triển. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, các vụ việc phức tạp, khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài. Nghiên cứu, xây dựng Luật Thực hành dân chủ ở cơ sở.

Nâng cao trách nhiệm và hiệu quả phối hợp trong việc thực hiện Quy chế công tác dân vận trong hệ thống chính trị; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp.

Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và hội quần chúng theo hướng sát cơ sở, thực chất, hiệu quả hơn. Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách chăm lo, động viên đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, Mặt trận và các tổ chức thành viên; kiên quyết không bố trí cán bộ vi phạm kỷ luật, thiếu gương mẫu, đạo đức kém làm công tác dân vận.

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội và góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội, phối hợp với chính quyền các cấp và các cơ quan quản lý nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn tính minh bạch, thông tin cho nhân dân và xã hội các vấn đề nguồn lực, sử dụng nguồn lực và kiểm soát tính hiệu quả của sử dụng các nguồn lực xã hội.

Đẩy mạnh phong trào thi đua "Dân vận khéo” trong toàn hệ thống chính trị, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững, giữ vững quốc phòng, an ninh; phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ trong nhân dân đóng góp cho xã hội, cho đất nước; biểu dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước, trong hoạt động vận động nhân dân, thực hiện công vụ, cải cách hành chính, trong quan hệ với nhân dân, nhằm cổ vũ tinh thần phục vụ nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tích cực tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận.

"Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh ‘Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công’, phát huy truyền thống vẻ vang 90 năm của Đảng, cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, với bản lĩnh, quyết tâm và nỗ lực chung, chúng ta tin tưởng rằng công tác dân vận sẽ tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới”, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương Nguyễn Hồng Lĩnh bày tỏ./.



Kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến: Kinh nghiệm từ Lâm Đồng


Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII diễn ra vào sáng 27/1, đồng chí Trần Đức Quận, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng đã trình bày tham luận với chủ đề "Tổ chức kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, thị trường xuất khẩu và chuỗi giá trị toàn cầu của tỉnh Lâm Đồng” trong đó nêu lên 5 bài học kinh nghiệm và định hướng phát triển của địa phương trong thời gian tới.

 

Đồng chí Trần Đức Quận, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Lâm Đồng tham luận tại Đại hội. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Theo đồng chí Trần Đức Quận, nông nghiệp là lĩnh vực nhiều lợi thế, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Lâm Đồng. Kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu là giải pháp có ý nghĩa chiến lược quan trọng để nông nghiệp Lâm Đồng phát triển bền vững và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Xác định nông nghiệp là ngành kinh tế trọng yếu, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 11/11/2016 "Về phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững và hiện đại giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025”.

Những năm qua, nông nghiệp Lâm Đồng có bước phát triển vượt bậc về quy mô, năng suất, giá trị, thu nhập trên một đơn vị diện tích và cả nguồn nhân lực (hiện giá trị sản xuất bình quân đạt 185 triệu đồng/ha/năm, tăng 27,5% so với năm 2016. Năng suất lao động trong nông nghiệp bằng 1,26 lần và giá trị sản phẩm trên 1 ha bằng 1,84 lần so với cả nước).

Là một trong những địa phương đi đầu cả nước về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp thông minh và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp phát triển mạnh với mô hình "doanh nghiệp là nòng cốt, ứng dụng khoa học công nghệ là điều kiện tiên quyết; xây dựng chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để phát triển bền vững; xây dựng thương hiệu để bảo hộ quyền lợi người sản xuất và tạo niềm tin cho người tiêu dùng; nông dân đóng vai trò chủ thể”.

Trong thời gian qua, hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học kỹ thuật tiếp tục được tỉnh ưu tiên quan tâm hàng đầu, tạo điều kiện cho các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp tổ chức thực hiện. Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp đã làm thay đổi tư duy, nâng cao trình độ sản xuất của người nông dân, kể cả ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Phát huy vai trò nòng cốt của doanh nghiệp trong phát triển chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ hợp tác trong nông nghiệp nhằm phát triển vùng nguyên liệu có chất lượng đồng đều, ổn định phục vụ cho công nghiệp chế biến, xuất khẩu, hiện toàn tỉnh có khoảng 165 chuỗi với sự tham gia của 197 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở và gần 17.000 hộ nông dân, giá trị sản xuất thông qua chuỗi chiếm khoảng 20% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.

Bên cạnh đó, tỉnh đã xây dựng và triển khai mạnh mẽ Đề án phát triển nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành, xây dựng thành công các chỉ dẫn địa lý cũng như thương hiệu nông sản Lâm Đồng với nhãn hiệu "Đà Lạt kết tinh kỳ diệu từ đất lành”. Đây là định hướng quan trọng mở ra cho nông sản của tỉnh tiếp cận các thị trường trong nước và tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước để đẩy mạnh xuất khẩu.

Nông sản Lâm Đồng đã được xuất khẩu đi hơn 40 nước trên thế giới. Hiện nay giá trị xuất khẩu nông sản đang chiếm khoảng 53% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tỉnh Lâm Đồng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 13%/năm.

"Về cơ bản, đến nay Lâm Đồng đã xây dựng được một nền nông nghiệp với trình độ sản xuất khá cao, có thương hiệu, năng suất, chất lượng tốt, đây sẽ là tiền đề quan trọng để nâng tầm ngành nông nghiệp của tỉnh, đáp ứng yêu cầu hội nhập và tham gia tích cực vào chuỗi giá trị toàn cầu”, đồng chí Trần Đức Quận cho biết.

Theo đồng chí Trần Đức Quận, từ thực tiễn và những kết quả đạt được, Đảng bộ tỉnh rút ra 5 bài học kinh nghiệm và định hướng phát triển trong thời gian tới.

Cụ thể, thứ nhất là tiếp tục cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng tiếp cận đa ngành, bền vững, hiện đại có giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cao; trên cơ sở phát huy tốt các nguồn lực về khí hậu, thổ nhưỡng, con người, kinh nghiệm trong phát triển những năm qua. Từ đó tỉnh xác định tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thông minh và hữu cơ trong điều kiện biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế. Đổi mới quan hệ sản xuất để phát triển nông nghiệp bền vững, với mô hình "Doanh nghiệp là nòng cốt; kinh tế tập thể, hợp tác xã, tổ hợp tác là trung tâm; nông dân là chủ thể”. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nhất là những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào sản xuất nông nghiệp; mời gọi các nhà khoa học tham gia đánh giá các mô hình thực tiễn và định hướng chiến lược cho giai đoạn tiếp theo.

Thứ hai, quy hoạch và mở rộng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao với tất cả các loại cây trồng, vật nuôi; tổng kết, đánh giá các mô hình xen canh, tái canh để tiếp tục phát huy các mô hình hiệu quả. Xây dựng các vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn đạt tiêu chuẩn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Quy hoạch phát triển mạnh vùng trồng cây dược liệu và phát triển ngành công nghiệp chế biến dược phẩm, thực phẩm chức năng bằng nguyên liệu tại chỗ phù hợp với điều kiện từng vùng. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống nhà kính, nhà lưới hạn chế ảnh hưởng cảnh quan, phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, thân thiện môi trường.

Thứ ba, xây dựng đề án và ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã, kêu gọi và khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hợp tác xã; hình thành hệ thống phân phối, chế biến và tiêu thụ nông sản; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư và phát triển công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến nông sản. Có cơ chế, chính sách hợp lý nhằm thu hút các nhà đầu tư chiến lược đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với điều kiện thực tế địa phương tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Đẩy mạnh khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp; khuyến khích các đối tượng, nhất là "nông dân thế hệ mới” xây dựng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông minh, từ đó nhân rộng mô hình trong nhân dân.

Thứ tư, gắn phát triển nông nghiệp công nghệ cao với chương trình xây dựng nông thôn mới, (đây là kinh nghiệm mà tỉnh Lâm Đồng triển khai rất hiệu quả thời gian qua, góp phần đáng kể trong nâng cao năng suất lao động, thu nhập cho người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và góp phần thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới). Trong đó, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của người nông dân tự nguyện tham gia sáng lập các mô hình kinh tế tập thể trong tổ chức xây dựng nông thôn mới tạo hiệu quả nổi trội. Đặc biệt, xây dựng cảnh quan môi trường nông thôn bình yên, có bản sắc và đặc trưng của từng vùng, phát triển du lịch ở nông thôn và du lịch canh nông.

Thứ năm, thúc đẩy phát triển dịch vụ logicstic nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu, các dịch vụ trọn gói (đóng gói, lưu kho, thực hiện các thủ tục hải quan, vận chuyển, giao hàng,…). Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng chiến lược xuất khẩu nông sản trong đó xác định từng loại thị trường, định hướng cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân chủ động đáp ứng về tiêu chuẩn, quy chuẩn các loại hàng hóa phục vụ xuất khẩu.

Tiếp tục phát triển thương hiệu nông sản với nhãn hiệu "Đà Lạt - Kết tinh kỳ diệu từ đất lành” trở thành thương hiệu mạnh của cả nước; đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp quảng bá thương hiệu, xây dựng và bảo hộ thương hiệu nông sản. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại và hợp tác với các kênh phân phối bán lẻ trong và ngoài nước bằng nhiều phương thức phù hợp để đưa nông sản Lâm Đồng tham gia vào các thị trường chiến lược.

Nhấn mạnh, để thực hiện thành công mục tiêu xây dựng tỉnh Lâm Đồng thành trung tâm nghiên cứu, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh tầm quốc gia và quốc tế; đưa nông sản Lâm Đồng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Lâm Đồng mà còn cần sự hỗ trợ rất lớn của các ban, bộ, ngành Trung ương, đồng chí Trần Đức Quận kiến nghị Trung ương, Chính phủ, các ban, bộ ngành Trung ương quan tâm hỗ trợ tỉnh trong việc phát triển hệ thống logistic. Đồng thời, cần quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là tuyến đường cao tốc Dầu Giây-Liên Khương và mở thêm các đường bay quốc tế đi và đến Cảng hàng không Liên Khương Đà Lạt nhằm giảm chi phí vận chuyển trong tổng chi phí sản xuất góp phần tăng sức cạnh tranh của nông sản Lâm Đồng, chủ động tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.


Phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu


Tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, sáng 27/1, Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong cho rằng để tiếp tục nâng cao tiềm lực, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu, bảo đảm cho đất nước ta phát triển nhanh và bền vững. 

Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong tham luận tại Đại hội XIII. Ảnh: VGP/Nhật Bắc


Với lợi thế của một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, thời gian qua, TPHCM đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Hình thành nền tảng kinh tế tri thức

TPHCM đã hình thành những nền tảng của kinh tế tri thức, bao gồm đội ngũ trí thức đông đảo, đô thị thông minh, khu công nghệ cao, trung tâm khởi nghiệp sáng tạo, các tập đoàn lớn về công nghệ, các trung tâm nghiên cứu phát triển, hạ tầng công nghệ thông tin trên nền tảng mạng 5G.

Cụ thể là thành lập và phát triển chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung, Khu Công nghệ cao, Khu Nông nghiệp Công nghệ cao, Trung tâm ươm tạo chuyên về trí tuệ nhân tạo, Công viên Khoa học và công nghệ tại Khu Công nghệ cao, Viện Khoa học và Công nghệ tính toán… Riêng Khu Công nghệ cao đến nay đã thu hút 162 dự án với tổng mức đầu tư hơn 7,65 tỷ USD, giá trị sản xuất sản phẩm công nghệ cao năm 2020 đạt hơn 20 tỷ USD, năng suất lao động bình quân gấp 20 lần bình quân của Thành phố và hơn 60 lần bình quân cả nước, thu hút nhiều tập đoàn đa quốc gia mạnh về công nghệ như Intel, Samsung, Nidec…

TPHCM là địa phương đầu tiên ban hành Chương trình chuyển đổi số nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số, chính quyền số và xã hội số. Ban hành Chương trình xây dựng Thành phố trở thành đô thị thông minh với 4 trụ cột: Kho dữ liệu dùng chung và hệ sinh thái dữ liệu mở; Trung tâm điều hành đô thị thông minh; Trung tâm mô phỏng dự báo kinh tế-xã hội và Trung tâm an toàn thông tin Thành phố.

Đặc biệt, TPHCM đang nghiên cứu lập, xây dựng quy hoạch Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía đông gắn với việc thành lập TP. Thủ Đức. Khu vực này kỳ vọng góp phần thiết lập chuỗi giá trị gia tăng trên nền tảng công nghệ cao, hạ tầng kỹ thuật và xã hội hiện đại theo chuẩn quốc tế, hỗ trợ tài chính hiệu quả cho doanh nghiệp, là đòn bẩy và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

"Điều quan trọng không thể thiếu là tạo niềm tin trong lòng nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp Thành phố. Thực tiễn cho thấy việc tham gia của người dân, cộng đồng doanh nghiệp có ý nghĩa then chốt trong phát triển kinh tế tri thức. Những ứng dụng của công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính công, chính quyền điện tử, phát triển giao thông thông minh, y tế thông minh, giáo dục thông minh, khởi nghiệp sáng tạo,… luôn được người dân và doanh nghiệp đồng tình và tích cực hưởng ứng’, đồng chí Nguyễn Thành Phong trao đổi.

TPHCM cũng quan tâm ban hành nhiều cơ chế, chính sách thu hút các nhà khoa học, trí thức trong và ngoài nước, kiều bào ở nước ngoài tham gia vào mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế-xã hội của Thành phố, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tri thức. Chủ động và đón đầu trong việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào phát triển kinh tế dựa trên nền tảng tri thức.

7 giải pháp trọng tâm

Lãnh đạo TPHCM đã đề xuất 7 giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế tri thức trong thời gian tới.

Thứ nhất, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế tri thức. Cần thiết xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045.

Thứ hai, phát triển mạnh nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục theo hướng tăng cường thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đàm phán, hợp tác, chuyển giao chương trình đào tạo tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học-kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân...

Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học-công nghệ (KHCN) quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức KHCN mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền KHCN tiến tiến của Việt Nam.

Đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu KHCN và biến KHCN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhằm tạo nền tảng công nghệ phục vụ phát triển đất nước theo hướng hiện đại và tạo ra các yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về KHCN. Cơ chế đó phải hướng vào việc thúc đẩy KHCN thực sự gắn kết với sản xuất-kinh doanh, khoa học xâm nhập vào thực tiễn sản xuất-kinh doanh làm ra của cải và tri thức mới phục vụ trực tiếp công cuộc phát triển kinh tế -xã hội…

Thứ tư, đầu tư phát triển mạnh mẽ hạ tầng công nghệ thông tin; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 còn diễn biến phức tạp trên thế giới, vừa là cơ hội, vừa là áp lực để nước ta phát triển mạnh mẽ kinh tế số trong thời gian tới.

Thứ năm, ban hành các cơ chế, chính sách để hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Cơ chế, chính sách phải thực sự vừa khuyến khích nhưng vừa tạo ra sự đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới; trong đó khâu then chốt là cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.

"Chính phủ cần lựa chọn và có chính sách đặc thù đối với một số doanh nghiệp có khát vọng và bản lĩnh, có đủ năng lực và quy mô cho đầu tư, nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, tiên phong vươn tầm thế giới. Từ đó dẫn dắt các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị khu vực, chuỗi giá trị toàn cầu; từng bước làm chủ công nghệ, xây dựng thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh và hấp dẫn trong "sân chơi” toàn cầu. Song song đó, cũng cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ mạnh dạn đổi mới công nghệ, quy trình trình sản xuất và quản lý”, Chủ tịch UBND TPHCM nói.

Thứ sáu, không ngừng cải cách, đổi mới để đảm bảo vai trò dẫn dắt, quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Cần có cơ chế đặc thù để các khu công nghệ cao, khu công viên phần mềm phát huy vai trò là trung tâm đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ bảy, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực, kết hợp nội lực để bắt kịp xu thế phát triển khoa học công nghệ tiên tiến, phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất của đất nước.

Theo ông Nguyễn Thành Phong, trong xu thế toàn cầu hóa và bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chắc chắn rằng tăng trưởng kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ sẽ nhường chỗ cho nền kinh tế tăng trưởng dựa vào hàm lượng công nghệ cao, đa dạng hóa và nâng cao giá trị gia tăng. Do vậy, để tiếp tục nâng cao tiềm lực, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, phát triển kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu, bảo đảm cho đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, nước ta là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.



Đổi mới tư duy, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa chuyên canh, quy mô lớn

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và Nghị quyết Đại hội XI, XII của Đảng tiếp tục khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

 

Đồng chí Dương Văn Thái, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang tham luận tại Đại hội XIII. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

 

 

Đồng tình, nhất trí cao với các văn kiện trình tại Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Dương Văn Thái, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang, bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề phát triển nông nghiệp qua tham luận "Phát triển nông nghiệp đa dạng tỉnh Bắc Giang dựa trên điều kiện đặc thù vùng trung du-miền núi” tại Đại hội XIII của Đảng.

Đồng chí Dương Văn Thái nhấn mạnh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X và Nghị quyết Đại hội XI, XII của Đảng tiếp tục khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

Những năm gần đây, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành tập trung, quyết liệt, sáng tạo của Chính phủ, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, ngành Nông nghiệp tiếp tục phát triển và thu được những kết quả ấn tượng. Nông nghiệp phát triển đã góp phần quan trọng hiện thực hóa chủ trương của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bộ mặt nông thôn Việt Nam có nhiều đổi mới.

"Nông nghiệp ngày càng giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái,” đồng chí Dương Văn Thái nhấn mạnh.

Nhấn mạnh những bài học kinh nghiệm tại địa phương trong phát triển, sản xuất nông nghiệp, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang cho rằng, cần làm tốt công tác quy hoạch phát triển các vùng sản xuất và định hướng phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái (có đặc điểm địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng khác nhau) để xây dựng các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, chất lượng.

Bên cạnh đó, đồng chí Dương Văn Thái cũng nhấn mạnh, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức sản xuất nông nghiệp cần không ngừng đổi mới tư duy, chuyển đổi từ sản xuất truyền thống, thủ công, nhỏ lẻ sang phát triển các mô hình sản xuất hàng hóa chuyên canh, tập trung, quy mô lớn, đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hướng tới thị trường toàn cầu.

Ứng dụng khoa học công nghệ và thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm giải pháp trung tâm, tạo đột phá tăng năng suất, chất lượng; làm tốt công tác xây dựng thương hiệu sản phẩm; phát triển các chuỗi liên kết giá trị, phát triển thị trường để nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh, đảm bảo ổn định đầu ra cho các sản phẩm nông sản.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang nhiệm kỳ 2020-2025 xác định tập trung phát triển toàn diện trên cả ba khu vực kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, trong đó nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng đảm bảo cho phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Để đạt được các nhiệm vụ đề ra, Bí thư Tỉnh ủy Dương Văn Thái cho biết, Bắc Giang tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, sản xuất nông nghiệp sạch theo hướng hữu cơ, gắn với phát triển các chuỗi liên kết giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.


 

Ngành giáo dục đột phá về cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường


 

Phát biểu tại Đại hội Đảng lần thứ 13, sáng 27/1, đồng chí Phùng Xuân Nhạ cho biết, sau 7 năm thực hiện  Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, năm 2013, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã tạo được chuyển biến căn bản về chất lượng, hiệu quả, được các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Đồng chí Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phát biểu tham luận tại Đại hội XIII. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Nổi bật là, Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới. Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực chất, hiệu quả hơn. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực…

Bên cạnh những kết quả đạt được, đồng chí Phùng Xuân Nhạ cũng nêu lên những bất cập, hạn chế sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29.

Công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường.

Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội.

Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm...

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu 5 nhóm giải pháp để tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong giai đoạn 2021-2025.

Theo đó, đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường là giải pháp đột phá. Giải pháp này không cần nhiều nguồn lực nhưng tháo gỡ được những nút thắt, rào cản đổi mới giáo dục hiện nay.

Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy và cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức trong ngành Giáo dục bảo đảm tinh gọn, hiệu quả; rà soát, sắp xếp và bố trí đủ số lượng giáo viên, giảng viên bảo đảm quy định về khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục, quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên đối với các cấp học. Tiếp tục chuẩn hóa giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục theo các vị trí chức danh, xây dựng lộ trình và thực hiện nâng chuẩn trình độ đào tạo giáo viên theo quy định của Luật Giáo dục năm 2019.

Xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học, công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Các địa phương tiếp tục thực hiện rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông bảo đảm nguyên tắc tạo thuận lợi cho việc học tập của học sinh gắn với các điều kiện bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông; khắc phục tình trạng nhiều điểm trường lẻ, trường học có quy mô nhỏ, chất lượng giáo dục chưa cao để tập trung đầu tư nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.

Tăng cường đầu tư, phát triển nhanh trường, cụm lớp cho cấp học mầm non; ưu tiên tài chính và quỹ đất để bảo đảm đủ trường, lớp cho học sinh học 2 buổi/ngày, nhất là ở vùng khó khăn, trước hết tập trung cho giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học; bảo đảm đủ các phòng chức năng, bếp ăn, nhà vệ sinh, công trình nước sạch.

Khuyến khích phát triển hệ thống các cơ sở giáo dục ngoài công lập ở những nơi có điều kiện; rà soát các cơ sở giáo dục mầm non độc lập, bảo đảm thực hiện đúng các quy định về tổ chức hoạt động và tiêu chuẩn đội ngũ, cơ sở vật chất tối thiểu để bảo đảm chất lượng giáo dục. Thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực và tiếp cận quốc tế.

Trước yêu cầu chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, ngành giáo dục xác định sứ mệnh tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ này, góp phần rút ngắn quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và đóng góp tích cực vào quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Phát triển tài nguyên số và môi trường học tập số, bổ sung vào kho học liệu số toàn ngành, ngân hàng câu hỏi trực tuyến dùng chung trong toàn ngành, kho bài giảng e-learning kết nối với Hệ tri thức Việt số hóa.

Đẩy mạnh triển khai dịch vụ công trực tuyến trong giáo dục, ưu tiên triển khai dịch vụ công trực tuyến về xét tuyển học sinh đầu cấp mức độ 3, mức độ 4; thực hiện thanh toán học phí không dùng tiền mặt.

Ngành giáo dục chủ động đẩy mạnh công tác truyền thông về giáo dục và đào tạo, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động, sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới và tự chủ đại học, trước hết là quán triệt sâu sắc trong nội bộ ngành.

 

 

 


Theo Báo Chính phủ

Các tin khác


Toàn văn Diễn văn khai mạc của Thủ tướng tại Đại hội Đảng XIII

Sáng 26/1, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc trọng thể tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ở Thủ đô Hà Nội với sự tham dự của 1.587 đại biểu chính thức. Thay mặt Đoàn Chủ tịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đọc Diễn văn khai mạc Đại hội. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn Diễn văn khai mạc.

TRỰC TIẾP: Lễ Khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Đúng 8h, ngày 26/1 tại Thủ đô Hà Nội, Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng đã long trọng khai mạc với sự tham dự của 1.587 đại biểu chính thức đến từ 67 Đảng bộ trực thuộc Trung ương.

Hôm nay, 26-1, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Hà Nội Khai mạc Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Hôm nay, 26-1, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khai mạc tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Hà Nội. Đại hội tiến hành từ ngày 26-1 đến 2-2-2021, có nhiệm vụ đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và nhìn lại chặng đường 35 năm đổi mới đất nước; thảo luận, thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; các báo cáo: Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025; kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng họp phiên trù bị

(HBĐT) - Sáng 25/1, trước giờ khai mạc phiên họp trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ; Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội; Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư; đồng chí Trần Thanh Mẫn, Bí thư T.Ư Đảng, Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam, cùng các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và đại biểu dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự phiên họp trù bị Đại hội XIII của Đảng

Sáng 25/1/2021, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến dự phiên họp trù bị Đại hội XIII của Đảng.

Một số hình ảnh tại phiên họp trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Sáng 25/1/2021, sau khi đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và dâng hương tại Đài tưởng niệm các Anh hùng Liệt sỹ, 1.587 đại biểu, đại diện cho trên 5,1 triệu đảng viên trong cả nước dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp phiên trù bị tại Hội trường Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Thủ đô Hà Nội.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục