Ông Nguyễn
Văn Bình tại hang Đền Mẫu, Đồng Đăng, Lạng Sơn, nơi mà cách đây 40 năm là nơi
trú ẩn của hơn 500 người dân trước quân địch
Cầm cự để chiến
đấu đến cùng
Trong sử sách
thị trấn Đồng Đăng ghi rõ: Năm 1979, tình hình biên giới với Trung Quốc diễn biến
ngày càng phức tạp. Ngày 15-2-1979, phía Trung Quốc huy động 2 đại đội đánh chiếm
một số điểm thuộc thị trấn Đồng Đăng và xã Bảo Lâm. Sáng sớm 17-2, thị trấn Đồng
Đăng bị đánh chiếm… Bảo vệ Đồng Đăng, các chiến sĩ Đồn biên phòng 193 đã phối hợp
với cảnh sát cơ động, đại đội công binh, Trung đoàn 12 cùng nhân dân xã Bảo Lâm
nổ súng đánh trả quyết liệt. Lực lượng phòng thủ tại Đồng Đăng chưa được chi viện
kịp, nhưng vẫn bám trụ trận địa cho tới ngày 22-2.
Ngày cuối
cùng tại Pháo đài Đồng Đăng, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, quân Trung
Quốc đã phải chở bộc phá đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn
vào lỗ thông hơi giết hại nhiều thương binh và dân thường. Nhưng ác liệt nhất,
phải kể đến cuộc bám trụ 3 ngày đêm tại hang Đền Mẫu của quân và dân thị trấn Đồng
Đăng.
Trong cơn mưa
nặng hạt những ngày giáp Tết Nguyên Đán Kỷ Hợi 2019, ông Nguyễn Văn Bình
(nguyên là lính trinh sát, tiểu đội trưởng, trong sự kiện ngày 17-2-1979) đang
giúp vợ và các con dọn dẹp vài chiếc ghế nhựa cũ kỹ sau buổi bán hàng ăn sáng
dưới chân hang Đền Mẫu. Biết chúng tôi tìm đến ông để hỏi về cuộc chiến đấu
biên giới cách đây 40 năm, ông Bình như "sống lại” thời khắc oanh liệt
đó.
Cách đây tròn
40 năm, nhiều người cao tuổi ở thị trấn Đồng Đăng không ai không nhớ rạng sáng
17-2, khi mọi người đang ngon giấc thì bất chợt đạn pháo từ bên kia biên giới dội
ầm ầm xuống thị trấn, khói mù mịt khiến nhiều người hoảng sợ. Ông Bình nhớ lại,
lúc đó ông là tiểu đội trưởng đóng quân tại thị xã Cao Bằng nhưng vì bị ốm, ông
Bình được đưa về tuyến dưới điều trị. Sau khi ra viện, ông Bình trở lại đơn vị,
trên đường đi từ Hà Nội qua Đồng Đăng để lên Cao Bằng thì không ngờ tới Đồng
Đăng (ngày 16-2-1979) cũng là thời điểm chiến sự nổ ra. Lúc 5 giờ sáng
17-2-1979, đạn pháo Trung Quốc bắn vào thị trấn đỏ trời.
Nhà ông Bình
cạnh hang Đền Mẫu, pháo bắn cạnh nhà ông, ông hô hoán gia đình và làng xóm chạy
lên hang để tránh đạn, vì vội không ai mang theo thứ gì. Lên đến hang thì gặp một
đại đội cảnh sát cơ động cũng đang đưa từng tốp người dân địa phương di chuyển
lên để tránh đạn pháo của địch. "Lúc tới hang, thấy đại đội toàn tân binh, kinh
nghiệm còn ít nên tôi nghĩ không lên Cao Bằng nữa mà ở trong hang cùng bà con.
Đã chiến đấu thì ở đâu cũng chiến đấu. Sau đó, tôi xin sáp nhập vào đại đội
công an này, lúc đầu các anh chưa chấp nhận, sau khi xem giấy tờ quân nhân và
biết tôi là người địa phương nên được chấp nhận cùng đại đội chiến đấu và bảo vệ
người dân...”, ông Bình nhớ lại.
Cho tới giờ,
trong tâm trí của người lính năm xưa vẫn không quên hình ảnh gần 500 người dân
với 120 chiến sĩ cảnh sát cơ động cùng trú tại hang Đền Mẫu trong 3 ngày (từ
sáng 17-2 đến ngày 19-2), không chỉ có cái đói, cái khát bủa vây mà còn là súng
đạn của quân địch rình rập, đe dọa. Ban ngày, ông Bình và các chiến sĩ thay
nhau canh gác cửa hang để đảm bảo quân Trung Quốc không xâm phạm tới tính mạng
người dân. Nói là canh gác nhưng người phải nằm, phải bò từng gang để cảnh giới
quân địch. Cầm cự được đến hết ngày 17-2, sang ngày 18-2, ban đêm, ông Bình
cùng vài chiến sĩ đã bò ra ngoài, men theo sườn hang xuống nhà dân để tìm thức
ăn cho đồng bào. "Gần như tìm được cái gì có thể ăn là ăn, lạc (đậu phộng) sống,
su hào sống, cơm nguội… miễn cầm cự càng lâu càng tốt. Trong hang không có nước
uống, người cứ khô đi...”, ông Bình xúc động kể.
Sát cánh chiến
đấu cùng ông Bình trong những ngày ở hang Đền Mẫu còn có Binh nhì Triệu Quang
Điện, thuộc Đại đội cảnh sát cơ động. Trong hàng trăm con người ở trong hang, 2
ông là người thông thạo địa hình, xông xáo trong từng việc. Cách đây 40 năm,
Binh nhì Triệu Quang Điện chưa đầy 20 tuổi nhưng vô cùng gan dạ. Chứng kiến
quân địch có hỏa lực mạnh, biết mình không bắn xuể, ông Điện nhắc đồng đội phải
tiết kiệm đạn để chuyển phương án tác chiến bắn tỉa. "Tới khoảng 11 giờ trưa,
tôi và các chiến sĩ nghĩ rằng, phải tính viên đạn nào cho địch, viên nào bảo vệ
người dân. Đồng đội tôi có người hy sinh ngay trước cửa hang, lập tức có người
khác cầm súng lên thế chỗ. Cho tới ngày 18-2, toàn bộ thị trấn Đồng Đăng bị bao
vây, biết tình thế nguy hiểm, anh em bảo nhau bắn tỉa sau lưng địch... Việc bảo
vệ đồng bào mình là trên hết, song lúc đó đạn dược rất ít nên việc chọn phương
án tác chiến nào vừa hiệu quả, vừa tiết kiệm đạn được ưu tiên hàng đầu...”, ông
Điện nhớ lại.
Mở đường máu
cứu đồng bào
Trong ký ức đầy
sự kiện của mình, ông Bình vẫn thường kể chuyện cho các con cháu nghe về cuộc
"giải cứu” hơn 500 người dân ở hang Đền Mẫu. Ông Bình tâm sự: "Trong chiến
tranh, giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, nếu không đánh giá kỹ,
tìm hiểu kỹ đối phương sẽ dẫn đến thương vong rất lớn. Thực tế, sau 3 ngày
trong hang, không ánh sáng, không thức ăn, không nước uống, sức lực đã dần cạn
kiệt và phải tính phương án đưa đồng bào thoát ra ngoài càng sớm càng tốt. Sau
vài ngày tìm hiểu, ông nắm được "điểm yếu” quân Trung Quốc là ban ngày chúng
hùng hổ, đi đi lại lại quanh thị trấn với xe tăng yểm trợ, nhưng ban đêm chúng
co cụm và thi thoảng chỉ bắn đạn chỉ thiên để dọa nạt”.
Chiều
18-2-1979, đại đội trưởng và chính trị viên đại đội cảnh sát cơ động bàn phương
án đưa người dân trong hang ra vùng an toàn. Nhiều phương án được tính tới,
trong đó có phương án đưa dân qua các khe núi hiểm trở để tránh quân Trung Quốc
phát hiện (ông Bình gọi là yên ngựa). Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm và một vài lần
thăm dò quân Trung Quốc thông qua các lần đi tìm thức ăn, ông Bình ngăn cản
phương án đó, bởi nếu đi giữa 2 khe núi ắt sẽ bị phục kích ở hai bên. Đại đội
trưởng và chính trị viên thắc mắc thì ông phân tích: "Tôi là người khu vực này,
nếu đi qua đó sẽ có 2 khẩu 12 ly 7 đợi sẵn”. Do vậy, phương án rời hang phải
thay đổi, buổi tối hôm đó, ông Bình và ông Điện trinh sát lại khu vực để xem chỗ
nào không bị phục kích, trước khi quyết định đưa người dân ra ngoài. Căn cứ vào
điều kiện thực tế, nhận thấy tình hình yên ả hơn, ông Bình và ông Điện đề xuất
đưa đại đội cảnh sát và người dân bắt đầu ra khỏi hang từ chiều ngày 19-2. Lối
đi men bờ suối để ra quốc lộ 1B tới huyện Văn Quan. Lúc này, mọi người đã bàn
nhau: "Nếu trên đường đi bị địch đánh thì phải chia nhỏ từng tốp để mở đường
máu đưa bằng được dân ra khỏi vòng vây”.
Quả thật,
quân Trung Quốc rất đông, hỏa lực mạnh, án ngữ nhiều nơi và đoàn người không
tránh khỏi bị phục kích. Ông Điện và ông Bình lúc đó lấy hết sức để cõng những
người bị thương ra khỏi vòng vây, một số đồng đội ông hy sinh ngay trước mặt.
Nén lại nỗi đau, ông Bình, ông Điện cùng các chiến sĩ tiếp tục chiến đấu để đưa
người dân về vùng an toàn. Trong thời gian từ chiều 19-2 đến sáng ngày 21-2,
nhân dân mới đến được huyện Văn Quan. Lúc ra tới huyện Văn Quan, Trưởng ty Công
an Đào Đình Bảng vỗ vai tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bình: "May quá, nhờ có đồng
chí, nếu không thì đơn vị này không biết như thế nào”.
Trong cuộc giải
vây đó đã có 13 chiến sĩ cảnh sát cơ động hy sinh. Sau này, khi nhắc lại sự kiện
đó, Đại tá Triệu Quang Điện (nguyên Trưởng phòng Truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn)
nói: "Chúng giết hết dân, phá nhà cửa, lúc đó mình chỉ nghĩ làm sao để cứu được
bà con mình ra”. Sau khi cuộc chiến đấu kết thúc, khi được Đảng, Nhà nước tặng
danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, ông Điện vẫn cho rằng: "Là
thanh niên 18, đôi mươi, đi cứu dân, giữ nước là trách nhiệm của người chiến
sĩ”.
Theo SGGP