(HBĐT) - Làng rừng bản Sưng, xã Cao Sơn hiện diện ở lưng chừng núi Biều, là của quý còn sót lại không chỉ của huyện Đà Bắc mà là của cả quốc gia, nhân loại…


Người già ở bản Sưng, xã Cao Sơn (Đà Bắc) vẫn giữ nghề truyền thống thêu thùa thủ công để phục vụ đời sống hàng ngày.

Đã có mặt và sinh sống tại tỉnh Hoà Bình trên 40 năm, tôi sớm biết thế nào là rừng, làng rừng… tới mức tôi có thể liên tưởng người nông dân đồng bằng Bắc Bộ ra đồng thế nào, người miền núi vào rừng như thế. Nhưng, rồi rừng mất đi, những làng bản hầu hết chỉ còn là những làng bản miền núi, chứ không còn là làng rừng. Tiếp đến tốc độ phát triển của đô thị hoá, nhà bê tông, nhà ống không chỉ phổ biến ở thành phố, thị trấn, mà ầm ầm kéo đến các bản làng miền núi. Những làng rừng còn lại trở lên vô cùng hiếm hoi.

Bí thư Huyện uỷ Đà Bắc Đinh Công Báo là người Mường sinh ra và lớn lên tại xóm Vầy, xã Vầy Nưa, ngay dưới chân núi Biều phía sông Đà kể cho tôi nghe truyền thuyết về vùng này và có nhắc đến núi Biều. Thực ra tên núi là núi Niều, nhưng do cùng tên với vị tộc trưởng rất uy tín Đinh Công Niều nên người dân gọi chệch đi là núi Biều. Từ xa xưa đã lưu truyền câu ví: "Núi Biều như diều con gà. Núi Trà như mà con cua”.

Trên lưng chừng núi Biều, ở các phía đa số là những bản người Dao Tiền sinh sống (1 trong 2 nhánh người Dao có mặt tại tỉnh Hoà Bình). Đó là các bản: Sưng, Bai, Lanh, Mó Nẻ, Ngù… Và vì ở lưng chừng núi, đi lại khó khăn nên một bộ phận người Dao ở các bản này "hạ sơn” xuống thấp hơn, lập bản mới như bản Tằm - xã Cao Sơn, bản Dướng, bản Thín, bản Lau - xã Vầy Nưa… Tuy nhiên, cùng ở lưng chừng núi Biều, cùng là người Dao Tiền, nhưng những bản Dao khác không giữ được làng rừng như bản Sưng.

Các gia đình người Dao ở bản Sưng đều ở dưới tán rừng, nhà tiếp nhà và hoàn toàn không có bờ rào, dù chỉ là ranh giới tượng trưng. Rừng ngay ở ngõ, rừng vào tận sân… Tất cả những gì có trên mặt đất đều được đặt trong rừng. Thật thú vị khi những cây chò, đa, sâng, muồng, sấu… hàng trăm năm tuổi, cao vút như những cột chống khổng lồ kéo căng tấm thảm xanh làm rợp mát xóm làng. Càng thú vị hơn khi những cây cổ thụ ấy, dù đang đứng trong vườn nhà ai thì cũng là cây của chung, của làng. Dưới tán cổ thụ của chung ấy là tầng tầng, lớp lớp cây ăn quả như nhãn, hồng bì, mít, bưởi… của các gia đình.

Nhìn những người phụ nữ Dao lặng lẽ ngồi thêu váy áo trong nếp nhà gỗ dưới tán rừng, tôi nghĩ đến cảnh trong rừng xe máy, ngột ngạt khói xăng giữa nắng hè oi ả đến ngạt thở nơi đô thị, phố phường. Với giọng bộc trực và tưởng như hơi "ngang ngang”, ông Lý Hồng Si, nguyên trưởng bản Sưng lâu năm cả quyết: Chỉ Kiểm lâm không bao giờ có thể giữ được rừng nếu không có sự tự giác bảo vệ rừng của người dân. Việc bảo vệ rừng ở bản Sưng hoàn toàn do người dân tự giác. Anh nghĩ mà xem, những cây cổ thụ trong bản có tuổi thọ hàng mấy trăm năm. Nếu không do người dân thì ai mới có thể bảo vệ được nó cao xanh cho đến hôm nay.

Trong ngôi nhà lá mát rượi khi hè tới, ấm áp lúc đông về, tôi vừa nhẩn nha bát rượu hoẵng men rừng, vừa nghe chuyện về rừng, về cây, về làng mới thú vị làm sao. Có những chuyện rất thực, nhưng được người dân liên tưởng, ví von và đang đi vào cổ tích. Ví như chuyện về cây đa cổ thụ giữa làng được gọi tên là cây đa "cái”. Đây là cây đa mọc trên chạc của một cây vàng tâm lớn. Do giống đa phát triển nhanh toả rễ xuống. Người dân giữ lại 2 rễ lớn của cây đa cho mọc xuống đất thành cây đa 2 thân như 2 chân người đứng trên đất. Sự phát triển của cây đa trên cây vàng tâm như hình ảnh người phụ nữ, nên được bà con người Dao ở đây gọi là cây đa cái. Đa lớn nhanh đến độ thay thế cây vàng tâm. Khi cây đa thành cổ thụ, nghĩa là cây đã già chứ không còn là cây đa tuổi con gái nữa, nhưng vẫn là cây đa cái.

Phải chăng, cây đa mang bóng mát chở che con người và chính con người lại thổi hồn vào cây, mang cho cây sự "linh thiêng” để trường tồn, để tiếp tục che chở cho các thế hệ người Dao Tiền bản Sưng, xã Cao Sơn này. Tôi tin, những cây chò, cây gội, cây muồng, cây sấu… cổ thụ ở bản Sưng đều đã và đang trở thành cây cổ tích giữa lưng núi Biều hùng vĩ. Và phải chăng, đây cũng chính là một biện pháp bảo vệ cây, bảo vệ rừng độc đáo của người Dao bản Sưng!


Lê Va

(Hội VH-NT tỉnh)


Các tin khác


Màu xanh no ấm

(HBĐT) - Hiện, toàn tỉnh có 459.063 ha đất tự nhiên, trong đó, 298.013 ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp (chiếm 64,66%). Diện tích đất quy hoạch rừng sản xuất là 149.492 ha (chiếm 51,7% tổng diện tích đất quy hoạch cho lâm nghiệp). Sản xuất lâm nghiệp góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, thu nhập cho dân cư nông thôn. Bên cạnh giá trị kinh tế, sản xuất lâm nghiệp còn có vai trò đảm bảo độ che phủ rừng (trên 50%), duy trì nguồn nước, chống xói mòn, cân bằng môi trường sinh thái, thúc đẩy ngành du lịch phát triển và đảm bảo AN-QP.

Động lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững

(HBĐT) - Gắn phong trào thi đua "Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau" với phong trào thi đua "Cả nước chung tay xây dựng NTM"; thực hiện đầy đủ các chính sách ưu đãi về tín dụng, y tế, giáo dục, đầu tư hạ tầng; phát huy tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, lồng ghép các chương trình, dự án giúp hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập và vươn lên khá giả... Bằng quyết tâm, nỗ lực, tỉnh ta đã đạt được dấu ấn nổi bật trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững (GNBV).

Dấu ấn 10 năm xây dựng nông thôn mới

(HBĐT) - Qua gần 10 năm triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới (NTM), tỉnh đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi diện mạo khu vực nông thôn, khẳng định kết quả phong trào xây dựng NTM trong những năm qua là rất quan trọng trong phát triển KT-XH, được xác định là chương trình trọng tâm giai đoạn 2010 - 2020. 

Bài 2 - Lan tỏa phong trào xây dựng nông thôn mới

Dấu ấn 10 năm xây dựng nông thôn mới

(HBĐT) -Sau 10 năm thực hiện (2010-2020), chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) đã làm thay đổi diện mạo vùng nông thôn của tỉnh. 

Bài 1 - Thành công từ sự đồng thuận

Đắm say vẻ đẹp ruộng bậc thang Miền Đồi

(HBĐT) - Nhắc đến ruộng bậc thang ở Hòa Bình không thể không nói đến ruộng bậc thang ở Miền Đồi, một xã vùng 135 của huyện Lạc Sơn. Đây thực sự là một công trình nhân tạo ấn tượng của huyện Lạc Sơn nói riêng và trên vùng đất cửa ngõ Tây Bắc nói chung.

Giữ “hồn Mường” cho vùng đất cổ Mường Bi

(HBĐT) - Những người con sinh ra, lớn lên ở huyện Tân Lạc luôn tự hào về vùng đất cổ Mường Bi, cái nôi của nền văn hóa Hòa Bình, nơi ra đời sự tích núi thiêng trong cuốn sử thi "Đẻ đất, đẻ nước". 

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục