Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)
Thế và lực của Việt Nam lớn mạnh hơn nhiều
Bước vào năm 2018, năm "bản lề” của giai đoạn 2016-2020, tình hình thế giới vẫn
tiếp tục xu hướng phức tạp của những năm gần đây: cạnh tranh địa chính trị gay
gắt; xung đột xảy ra ở nhiều nơi; kinh tế toàn cầu tiếp tục phục hồi nhưng cũng
có nhiều rủi ro; chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, "chiến tranh” thương mại gia tăng;
giá dầu thô tăng mạnh cùng với những biến động về lãi suất, tỷ giá trên thị trường
tiền tệ thế giới.
Trong khi đó, khoa học công nghệ phát triển nhanh, đặc biệt là những thành quả
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang tác động sâu rộng tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội.
Ở trong nước, kế thừa những thành tựu đạt được của hơn 30 năm đổi mới, thế và lực
của Việt Nam lớn mạnh hơn nhiều, nền kinh tế có độ mở lớn, vị thế quốc tế của
ta ngày càng nâng lên, nhưng vẫn còn những hạn chế, yếu kém tích tụ từ trước;
biến đổi khí hậu và diễn biến bất thường về thời tiết, thiên tai, bão lũ bất
thường gây thiệt hại nặng nề và ảnh hưởng không nhỏ sản xuất, kinh doanh và đời
sống nhân dân.
Trong bối cảnh đó, ngay khi bước vào năm kế hoạch 2018, Chính phủ đã tổ chức Hội
nghị trực tuyến toàn quốc nhằm đánh giá, tổng kết những kết quả đạt được của
năm 2017 và triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2018. Hội nghị đã
vinh dự được đón các đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc hội tới
dự, chỉ đạo; đặc biệt đây là lần đầu tiên, Tổng Bí thư tham dự và chỉ đạo Hội
nghị trực tuyến toàn quốc của Chính phủ về tổng kết năm và triển khai Kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội năm tới.
Triển khai ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư, ngay ngày đầu tiên của năm 2018, Thủ
tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị quyết 01 của Chính phủ chỉ đạo các bộ,
ngành, địa phương quyết liệt thực hiện đồng bộ, hiệu quả chín nhóm với 56 giải
pháp và 242 nhiệm vụ cụ thể phát triển kinh tế-xã hội trên cơ sở bám sát các Kết
luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội.
Với tinh thần chỉ đạo xuyên suốt là kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô
(kinh tế vĩ mô), kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền
kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh, tạo nền tảng cho phát triển bền vững, các cấp, các ngành, cộng
đồng doanh nghiệp và nhân dân đã nỗ lực cố gắng, đoàn kết, chủ động, sáng tạo
triển khai thực hiện. Nhờ đó, tình hình kinh tế-xã hội sau ba quý của năm 2018
tiếp tục duy trì đà chuyển biến tích cực, nền tảng vĩ mô tiếp tục được củng cố,
các động lực tăng trưởng được phát huy, dự kiến tất cả các chỉ tiêu đặt ra đều
đạt và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra.
Kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục được duy trì ổn định, tạo nền tảng quan trọng để
thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực. Kết
quả nổi bật nhất là lạm phát được kiểm soát liên tiếp trong năm thứ 3 của giai
đoạn 2016-2020, CPI luôn duy trì ở mức dưới 4%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội
giao.
Các chính sách tài khóa, tiền tệ và chính sách vĩ mô khác được điều hành linh
hoạt, kịp thời, giữ vững sự ổn định của tỷ giá, lãi suất, thị trường tiền tệ,
tín dụng trong nước; thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm; duy trì tăng
trưởng tín dụng ở mức hợp lý, khoảng 17%, đáp ứng yêu cầu về vốn của nền kinh tế,
nhất là lĩnh vực sản xuất kinh doanh ưu tiên; nợ công giảm từ 64,8% cuối năm
2015 xuống còn khoảng 61,4% năm 2018, thời gian trả nợ được kéo dài. Thị trường
chứng khoán - kênh huy động vốn của doanh nghiệp, tiếp tục khởi sắc và đã được
quốc tế đưa vào danh sách theo dõi nâng hạng lên thị trường mới nổi.
Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm và cải thiện tích cực so
năm 2017. Đáng chú ý, thu ngân sách nhà nước chuyển dịch theo hướng bền vững
hơn, ước đạt hơn 1,35 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 3% so dự toán và tăng 5,5% so
năm 2017. Bội chi ngân sách ước đạt 3,67%, vượt mục tiêu Quốc hội giao (3,7%). Cơ
cấu chi ngân sách có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng tăng chi đầu tư phát
triển, giảm chi thường xuyên. Giải ngân vốn đầu tư công ngày càng được cải thiện,
ước cả năm đạt hơn 90% kế hoạch. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 1,89 triệu
tỷ đồng, tăng 13,6%, bằng 34% GDP, đạt ở mức cao so mục tiêu Quốc hội giao
(33-34%) và mục tiêu 5 năm (32-34%). Cơ cấu đầu tư dịch chuyển theo hướng tích
cực, đầu tư của khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng ngày càng cao, đạt 42,4% (giai
đoạn 2011-2015 đạt 38,3%); giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt
khá, ước 18 tỷ USD, tăng hơn 2%, khẳng định môi trường đầu tư, kinh doanh của
Việt Nam tiếp tục được cải thiện, hấp dẫn các nhà đầu tư và doanh nghiệp nước
ngoài.
Trong bối cảnh xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng và tác động của căng thẳng
thương mại quốc tế, xuất nhập khẩu tiếp tục góp phần quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế với đà tăng trưởng cao. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc kỷ lục
năm 2017, ước đạt 475 tỷ USD, tăng 11,7%. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 238 tỷ
USD, tăng 11,2%, vượt mục tiêu Quốc hội giao (7-8%). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
cải thiện, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản
phẩm có chất lượng, giá trị cao; đã có ba nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu vượt
20 tỷ USD; xuất siêu khoảng 1 tỷ USD. Ước cả năm, cán cân thanh toán tổng thể
thặng dư 9 tỷ USD; quy mô dự trữ ngoại hối tăng cao, ước đạt khoảng 60 tỷ USD.
Tốc độ tăng trưởng GDP chín tháng đầu năm 2018 ước đạt 6,98%, cả năm dự báo triển
vọng có thể đạt cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra 6,7%. Quy mô nền kinh tế tăng mạnh,
năm 2018 đạt 5,5 triệu tỷ đồng (tương đương 240,5 tỷ USD), gấp 1,33 lần năm
2015. GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so năm 2015. Tăng
trưởng kinh tế dịch chuyển dần sang chiều sâu, năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh ngày càng được nâng lên. Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng
hợp (TFP) giai đoạn 2016-2018 ước đạt 42,18% (giai đoạn 2011-2015 đạt 33,58%),
năng suất lao động duy trì nhịp độ tăng 5,62%, cao hơn mức tăng của các nước
ASEAN và vượt mục tiêu bình quân 5 năm được Quốc hội giao.
Động lực tăng trưởng kinh tế đến từ cả phía cung và phía cầu, trong đó, đáng
chú ý là sự phát triển toàn diện của tất cả các ngành, lĩnh vực, với nhiều nhân
tố mới.
Điểm nổi bật là cả ba khu vực đều tăng cao hơn cùng kỳ; trong đó, nông nghiệp
chín tháng tăng 3,65%, cao nhất so cùng kỳ kể từ năm 2012, nhờ chuyển biến hiệu
quả của quá trình cơ cấu lại ngành, vùng sản xuất và sản phẩm gắn liền với đẩy
mạnh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới trong nhiều
năm qua; công nghiệp tăng 8,89%, với vai trò "nòng cốt” đóng góp cho tăng trưởng
kinh tế là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng trưởng liên tục ở
mức hai con số, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng giảm
phụ thuộc khai thác khoáng sản, tài nguyên; dịch vụ tăng 6,89%, đóng góp chủ yếu
từ các hoạt động bán buôn, bán lẻ; dịch vụ du lịch có bước phát triển vượt bậc,
lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt khoảng 15 triệu lượt khách, tăng
16,3%, vượt con số kỷ lục của năm 2017 (13 triệu lượt khách). Tổng cầu tăng mạnh;
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,3%. Với xu hướng
tốt như hiện nay, tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 có thể sẽ đạt mục tiêu Đại hội
lần thứ XII của Đảng đề ra là 6,5-7%, cao hơn bình quân giai đoạn 2011-2015
(5,91%).
Dây chuyền sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm
mạnh, từ 17,4% năm 2015 xuống 14,8% năm 2018; các khu vực công nghiệp, dịch vụ
tăng từ 82,6% lên 85,2%. Cơ cấu nội ngành đi vào thực chất hơn. Tỷ trọng ngành
khai khoáng giảm mạnh; các ngành chế biến, chế tạo, ứng dụng công nghệ cao tăng
nhanh. Xếp hạng năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP) của Việt Nam tăng từ thứ
48 năm 2016 lên thứ 41 năm 2017, thu hẹp khoảng cách so các nước ASEAN-4.
Việc thành lập và đưa Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đi vào hoạt
động góp phần đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa và thoái vốn.
Đã có chuyển biến tích cực trong việc xử lý các tồn tại, yếu kém của 12 dự án,
doanh nghiệp yếu kém ngành công thương; trong đó, một số dự án, doanh nghiệp đã
quay trở lại hoạt động và có đóng góp bước đầu vào tăng trưởng chung.
Cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng tiếp tục được
triển khai mạnh mẽ, phát huy hiệu quả, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các
lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm theo Nghị quyết số
42/2017/QH14 của Quốc hội; tiếp tục kiểm soát nợ xấu ở mức dưới 3%.
Như vậy, cả nước đang thực hiện hiệu quả và dự báo sẽ thành công "mục tiêu kép”
là vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, vừa thúc đẩy tăng
trưởng GDP, tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh
xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân, giải quyết những
vấn đề bức xúc; củng cố quốc phòng, ổn định trật tự, an toàn xã hội...
Nhiều tổ chức quốc tế cũng tin tưởng vào thành công của chúng ta và đã có những
dự báo tích cực đối với Việt Nam: Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng
GDP cả năm nay sẽ là 6,8%; Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tiếp tục dự báo
khoảng 6,9%; Fitch nâng xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ "BB-” lên "BB” với triển
vọng ổn định; Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s đã nâng bậc xếp hạng trái phiếu
Chính phủ Việt Nam dài hạn bằng ngoại tế và khoản vay không được bảo đảm lên mức
Ba3 từ mức B1 và thay đổi triển vọng kinh tế từ "Tích cực” sang "Ổn định.”
Bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế và tiếp tục
gặp những thách thức từ bên ngoài. Sức ép lạm phát còn lớn do tác động của nhiều
yếu tố, nhất là biến động tỷ giá, lãi suất (Mỹ đã tăng lãi suất ba lần trong
năm 2018 và dự kiến từ giờ đến cuối năm sẽ tăng thêm một lần nữa), xu hướng
tăng giá dầu thô và việc thực hiện lộ trình giá thị trường với điện, dịch vụ
giáo dục, y tế... Tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế được nâng lên nhưng khả
năng chống chịu trước những biến động bên ngoài còn hạn chế. Giải ngân vốn đầu
tư công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn ở nhiều bộ, ngành và địa
phương còn chậm. Tình hình sản xuất kinh doanh nhiều lĩnh vực còn khó khăn,
năng lực hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp
nhỏ và vừa còn hạn chế. Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính có nhiều
tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính trong một
số lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp, chưa cải cách thực chất. Năng suất lao động,
năng lực cạnh tranh trong nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới...
Nhìn chung, mặc dù còn nhiều hạn chế, khó khăn và trong bối cảnh tình hình thế
giới, khu vực có nhiều biến động, chúng ta đã kiểm soát tốt lạm phát, ổn định
vĩ mô, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung
chỉ đạo phát triển các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ
cao, tạo động lực mới nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh. Tốc độ tăng trưởng đạt cao hơn giai đoạn 2010-2015, chất lượng tăng trưởng
được nâng lên, bền vững hơn; quy mô nền kinh tế tăng mạnh. Các lĩnh vực văn
hóa, xã hội, môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, cải cách hành chính, phòng
chống tham nhũng, lãng phí đạt nhiều kết quả quan trọng. Quốc phòng, an ninh được
tăng cường; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế
được đẩy mạnh; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao.
Trên cơ sở kết quả chín tháng, ước cả năm 2018, chúng ta sẽ đạt và vượt toàn bộ
12 chỉ tiêu kế hoạch đề ra, trong đó có tám chỉ tiêu vượt. Với kết quả đạt được
của năm bản lề 2018, tình hình đất nước trên các lĩnh vực trong ba năm 2016-2018
phát triển đúng hướng, chuyển biến rõ nét hơn giai đoạn trước. Dự báo chúng ta
sẽ đạt được các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016-2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XII đã đề ra, trong đó đến nay 11 chỉ tiêu đạt và vượt. Việc đạt được kết
quả toàn diện trên các lĩnh vực thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đúng
hướng, đổi mới, sát sao, quyết liệt của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính
quyền các cấp, các ngành; sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, góp
phần quan trọng củng cố niềm tin, tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội, được
cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục tập trung thực hiện quyết liệt, đồng bộ các
giải pháp để hoàn thành và vượt các mục tiêu kế hoạch không chỉ cho năm 2018 mà
còn cho cả nhiệm kỳ; không chủ quan, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành
chính, tiếp tục đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; kiên định thực
hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô; tiếp tục các giải pháp cắt giảm điều
kiện kinh doanh, cắt giảm chi phí, cải cách hành chính nhằm cải thiện môi trường
đầu tư, kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và tạo niềm tin thu hút mạnh
hơn nữa đầu tư của lĩnh vực tư nhân, các tập đoàn lớn, tập đoàn xuyên quốc gia;
tiếp tục đẩy mạnh triển khai các hoạt động tăng cường năng lực tiếp cận khoa học
công nghệ; chủ động phòng, chống thiên tai, bão, lũ và bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội.
Ba nhóm giải pháp để đạt mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2019
Nhìn sang các năm 2019 và năm 2020, xu thế tích cực của nền kinh tế vẫn là chủ
đạo, triển vọng kinh tế Việt Nam tiếp tục khả quan, nhất là môi trường kinh tế
vĩ mô ổn định, niềm tin vào cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh được củng cố.
Tuy nhiên, các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp cần lưu tâm tới một số
rủi ro, thách thức, trong đó lớn nhất là thách thức đến từ bên ngoài, tạo áp lực
cho công tác điều hành, ứng phó với các biến động trong tương lai. Đó là sức ép
về lãi suất đồng USD, giá dầu thô và giá cả hàng hóa thế giới, căng thẳng do
chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể kéo dài, xu hướng bảo hộ
mậu dịch tiếp tục gia tăng, tạo áp lực lớn cho điều hành chính sách tiền tệ, tỷ
giá, lãi suất và lạm phát trong nước. Từ năm 2019, Việt Nam thực hiện đầy đủ
các cam kết quốc tế đã ký kết, nhất là cam kết mở cửa, hội nhập,... mang lại cơ
hội thu hút nguồn lực nước ngoài, nhưng đồng thời, cũng là áp lực cạnh tranh
không nhỏ đối với sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính phủ đã xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế-xã hội năm 2019 là
tiếp tục củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại
và tính tự chủ của nền kinh tế; tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh, thúc đẩy tăng trưởng; đẩy mạnh, tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực
hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; quyết liệt
đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ và tận dụng hiệu quả cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Chú trọng phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã
hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Tăng cường quản lý
tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên
chế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật; quyết
liệt phòng chống tham nhũng, lãng phí; xây dựng bộ máy liêm chính, hành động,
phục vụ. Củng cố quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao
hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu năm 2019 dự kiến là GDP tăng khoảng 6,6-6,8%; tốc
độ tăng CPI bình quân khoảng 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7-8%; tỷ
lệ nhập siêu so tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội chiếm khoảng 33-34% GDP... Để đạt được những mục tiêu này, các
ngành, các cấp cần tiếp tục thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm
các cân đối lớn của nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều hành, phối hợp đồng bộ, linh hoạt, chủ động chính
sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Tăng cường
công tác dự báo, kịp thời có các giải pháp, đối sách phù hợp tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Điều chỉnh
giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý theo lộ trình phù hợp, bảo đảm thận trọng,
không tăng giá đồng loạt nhiều hàng hóa, dịch vụ trong cùng thời điểm, hạn chế
điều chỉnh vào các tháng cuối năm. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện rà soát, cắt giảm
các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh bất hợp lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tạo dựng môi trường thuận lợi nhất
cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng hợp
lý, nâng cao chất lượng, tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên, khu vực sản xuất
kinh doanh. Điều hành lãi suất, tỷ giá linh hoạt, phù hợp diễn biến thị trường
trong và ngoài nước, các cân đối vĩ mô. Tiếp tục triển khai tích cực các biện
pháp hạn chế tình trạng đô-la hóa. Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ gắn với
cơ cấu lại ngân sách nhà nước, nợ công; mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu thuế,
chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá. Đẩy mạnh phát triển thị trường tài
chính, chứng khoán, tập trung phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu doanh nghiệp chủ động phương án hấp thu hiệu quả các nguồn vốn từ cổ phần
hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện quyết liệt ba đột phá chiến lược. Đẩy mạnh hoàn thiện
thể chế, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật. Nghiên cứu xây dựng
Luật về đầu tư theo hình thức đối tác công-tư. Tiếp tục nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức thi hành pháp luật. Thực hiện tốt công cuộc đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục đào tạo, hạn chế tối đa việc ban hành các chính sách mang tính thử nghiệm
gây sốc, tác động xấu đến xã hội và người dân. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa,
thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho giáo dục đào tạo, phát triển
nhân lực chất lượng cao. Kiên quyết thực hiện việc trao quyền tự chủ toàn diện
cho các cơ sở đào tạo. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách thu
hút, trọng dụng, đãi ngộ, bảo vệ, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao. Tập trung nguồn lực thực hiện một số dự án kết cấu hạ tầng
trọng điểm có tính lan toả cao; đẩy nhanh tiến độ dự án đường bộ cao tốc Bắc-Nam,
các dự án trọng điểm quốc gia và các điều kiện cần thiết để triển khai dự án Cảng
Hàng không quốc tế Long Thành.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh
tranh của nền kinh tế, tạo sự chuyển biến rõ nét hơn, thực chất hơn nữa trong từng
ngành, lĩnh vực, nhất là trong bối cảnh thực hiện chiến lược quốc gia về cách mạng
công nghiệp lần thứ 4. Theo đó, đẩy mạnh thực hiện chuyển dần từ mô hình tăng
trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang dựa đồng thời vào cả đầu tư, xuất
khẩu và thị trường trong nước; chuyển dần từ dựa vào gia tăng số lượng các yếu
tố đầu vào của sản xuất sang dựa vào tăng năng suất, chất lượng lao động, ứng dụng
khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế
quản lý đầu tư công, thực hiện đầu tư công có trọng tâm, trọng điểm, gắn chặt với
các ưu tiên về cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
và tốc độ cổ phần hóa, phát huy vai trò của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại
doanh nghiệp trong nâng cao thực chất trình độ quản trị, tăng cường tính công
khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp nhà nước. Giám sát việc thực hiện
phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tăng cường
quản lý hoạt động thanh toán, đặc biệt là thanh toán điện tử trong việc cung cấp
các dịch vụ xuyên biên giới, trung gian thanh toán, thanh toán qua mạng.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, vùng sản xuất nông nghiệp theo ba
trục sản phẩm gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới.
Phát triển, mở rộng sản xuất, theo hướng khai thác tối đa lợi thế, tiềm năng của
từng vùng, miền, địa phương, phù hợp nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước,
bảo đảm an toàn thực phẩm, thích ứng biến đổi khí hậu và gắn kết chặt chẽ với
công nghiệp chế biến, nhất là chế biến sâu để hình thành các vùng sản xuất hàng
hóa tập trung quy mô lớn phục vụ xuất khẩu. Đẩy mạnh đổi mới và phát triển các
hợp tác xã nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng hơn tới việc
tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, cạnh tranh quốc
tế.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp, phát triển sản xuất công nghiệp
theo chiều sâu, tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng gia
công, lắp ráp, từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức
cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới, tham gia sâu hơn trong chuỗi
giá trị toàn cầu. Thực hiện hiệu quả các đề án hỗ trợ ngành công nghiệp phụ trợ
trong một số ngành trọng điểm như công nghiệp ôtô, điện tử, dệt may và da giày.
Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp chế
tạo. Tiếp tục giải quyết cơ bản những dự án kém hiệu quả, thua lỗ.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo Chiến lược tổng
thể phát triển khu vực dịch vụ đến năm 2020. Thắt chặt công tác quản lý, kiểm
tra thị trường, xử lý kịp thời, đặc biệt tại các điểm nóng, vùng giáp biên,
phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp buôn lậu, hàng giả. Tăng cường các biện
pháp quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối bán lẻ
theo các cam kết mở cửa thị trường nhằm bảo đảm công bằng với doanh nghiệp trong
nước. Đẩy mạnh phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khai thác tốt
thị trường du lịch nội địa, chủ động chuyển hướng thị trường khách quốc tế để
giảm dần sự phụ thuộc. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với
các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng đối với hàng xuất khẩu. Tăng cường
tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là nông, thủy sản
thâm nhập các thị trường mới. Đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết, phê duyệt
các Hiệp định Thương mại tự do.
Chính phủ cũng xác định các giải pháp quan trọng khác nhằm bảo đảm an sinh xã hội,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát triển toàn diện các
lĩnh vực xã hội. Chú trọng các giải pháp phát huy nguồn lực tài nguyên gắn với
đẩy mạnh bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi
khí hậu. Xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương; xây dựng
Chính phủ điện tử gắn với sắp xếp, tổ chức bộ máy biên chế tinh gọn; đẩy mạnh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo. Tăng cường
tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả
hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền
thông theo hướng công khai, minh bạch và hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh và phát
huy hiệu quả công tác phối hợp giữa Chính phủ và các cơ quan của Đảng, Nhà nước,
các đoàn thể, quyết tâm thực hiện thành công nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp đề
ra./.
TheoVietnamplus