Thưa các đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau thời gian làm việc khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, Hội nghị lần thứ 13, BCH Đảng bộ tỉnh đã hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra. Các đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh và các đồng chí tham dự hội nghị đã thể hiện tinh thần, trách nhiệm cao, phát huy dân chủ, trí tuệ, thẳng thắn thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các báo cáo. BCH Đảng bộ tỉnh đã thống nhất cao và thông qua các văn kiện trình tại Hội nghị. Để kết thúc Hội nghị, thay mặt BTV Tỉnh ủy, tôi phát biểu, làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả chủ yếu của Hội nghị.
1- Về kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ 9 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm 3 tháng cuối năm 2018; kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020
Sau khi xem xét, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, BCH Đảng bộ tỉnh thống nhất nhận định: 9 tháng đầu năm 2018 và trong nửa đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, bên cạnh những thuận lợi, còn có nhiều khó khăn, thách thức. Song, BCH Đảng bộ tỉnh đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương; kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết; đổi mới tư duy, phương pháp lãnh đạo, quyết liệt chỉ đạo khắc phục hạn chế, yếu kém, chủ động dự báo, phân tích những vấn đề, lĩnh vực còn tiềm ẩn phức tạp và có kế hoạch khắc phục, không để bị động; xử lý kịp thời, linh hoạt, hiệu quả những phát sinh từ thực tiễn hằng ngày.
Công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới, thực hiện nghiêm túc, sáng tạo NQ T.ư 4 khóa XI, khóa XII gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Chú trọng củng cố, sắp xếp lại hệ thống chính trị và TCCS Đảng; sắp xếp, kiện toàn bộ máy, biên chế cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức thi tuyển lãnh đạo, quản lý cấp sở; triển khai thí điểm sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã, thực hiện sáp nhập thôn, xóm, tổ dân phố bước đầu đem lại hiệu quả tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện toàn diện, đồng bộ theo Chương trình kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2015 - 2020, Chương trình hằng năm và theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; nội dung kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; giám sát được mở rộng; thi hành kỷ luật đảm bảo đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục. Tổ chức đối thoại, tiếp xúc với Nhân dân, qua đó giải quyết những phát sinh, vướng mắc ngay tại cơ sở; mở rộng khối đại đoàn kết, góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Giai đoạn từ năm 2016 đến ngày 30/6/2018: Kinh tế tăng trưởng khá, GRDP bình quân tăng 8,6%/năm (tuy nhiên so với các tỉnh lân cận và trong khu vực trung du và miền núi phía Bắc, tốc độ tăng trưởng của tỉnh Hòa Bình ở mức trung bình; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2017 đứng ở vị thứ 8 trong 14 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, xếp thứ 5 trong 6 tỉnh vùng Tây Bắc); thu NSNN trung bình hằng năm tăng 11% (so với 14 tỉnh trung du và miền núi phía Bắc xếp thứ 7; so với 6 tỉnh Tây Bắc xếp thứ 3); về tăng trưởng của các ngành và đóng góp vào tăng trưởng chung của toàn tỉnh ngành CN-XD có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, đạt 12,48% và có đóng góp vào tăng trưởng chung cao nhất, ngành nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng thấp nhất, đạt 3% và có đóng góp vào tăng trưởng chung thấp nhất; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân hằng năm đạt 12.752 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư khu vực nhà nước chiếm tỷ lệ 33,02%; vốn đầu tư của người dân và DNDD chiếm tỷ lệ 60,58%; còn lại khu vực có vốn FDI chiếm 6,4% (so với các tỉnh trong khu vực trung du và miền núi phía Bắc thì tỷ lệ đầu tư từ khu vực FDIxếp thứ 4 và đứng đầu trong các tỉnh Tây Bắc); 9 tháng đầu năm 2018 GRDP ước tăng 8,41%, thu NSNN ước đạt trên 2.250 tỷ đồng; kết cấu hạ tầng KT-XH được đầu tư nâng cấp. Phong trào xây dựng NTM đạt được nhiều kết quả tích cực, đến nay đã có 60 xã (chiếm 31% số xã trong toàn tỉnh) về đích xây dựng NTM. Các chính sách, chế độ đối với người có công, các đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội được quan tâm thực hiện. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm tiếp tục được đẩy mạnh; năng suất lao động được cải thiện; cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực. Đổi mới GD&ĐT, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng con người; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển KH_CN, phong trào khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo đạt được kết quả tích cực. QP-AN được tăng cường; ANCT-TTAT xã hội được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số khuyết điểm, yếu kém: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số TCCS Đảng còn hạn chế; tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh tự phê và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy ở một số nơi chưa cao. Công tác vận động quần chúng có nơi, có việc chưa đáp ứng được yêu cầu; kết quả giám sát, phản biện xã hội chưa rõ nét. Tính gương mẫu trong thực thi nhiệm vụ, kỷ luật hành chính của một số CB,ĐV còn hạn chế; tính chủ động, phối hợp trong tham mưu, đề xuất của một số cơ quan, đơn vị để tháo gỡ khó khăn cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân còn nhiều bất cập. Tuy kinh tế đạt tốc độ tăng khá nhưng quy mô kinh tế còn nhỏ, tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh chỉ bằng 0,45% GDP của cả nước. CCHC chuyển biến chậm (xếp thứ 44/63 năm 2015, thứ 37/63 năm 2016 và thứ 55/63 năm 2017). Chỉ số năng lực cạnh tranh chưa được cải thiện (xếp thứ 46/63 năm 2015, thứ 52/63 năm 2016 và thứ 52/63 năm 2017). Năng suất lao động thấp so với mức trung bình của cả nước (đạt khoảng 65% so với cả nước) và thực tế đang có sự đánh đổi giữa việc làm và năng suất lao động (năm 2017, có 64,5% số lao động làm việc trong ngành nông nghiệp nhưng chỉ tạo ra 23,22% GRDP của tỉnh). Triển khai thực hiện đầu tư công chậm tiến độ, chưa thực sự ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp, cơ chế chính sách thu hút đầu tư vào sản xuất công nghiệp chưa có tính đột phá so với các tỉnh lân cận. Tốc độ phát triển doanh nghiệp còn chậm, có đến gần 20% doanh nghiệp tạm dừng hoạt động. Văn hóa - xã hội phát triển chưa tương xứng với vị thế, tiềm năng của tỉnh; còn tồn tại một số vấn đề xã hội bức xúc, nhất là trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Khiếu kiện về đất đai, tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm về ma túy còn tiềm ẩn nhiều phức tạp.
Những hạn chế, yếu kém trên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là do hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành, tính quyết liệt ở một số ngành, địa phương, đơn vị chưa cao; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; năng lực, trách nhiệm của một số CBCC, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy ở đâu cấp ủy, chính quyền, cá nhân người đứng đầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành quyết liệt, cụ thể, sâu sát thực tiễn, đổi mới sáng tạo, chủ động linh hoạt thì ở đó đạt kết quả tốt hơn.
Thưa các đồng chí,
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ năm 2018; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đã đề ra cần tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tinh thần năng động, sáng tạo, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, cần quan tâm thực hiện tốt một số giải pháp sau:
(1) Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ; làm tốt công tác chuẩn bị Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025. Thực hiện quyết liệt NQ T.ư 4 khóa XII, trọng tâm là khắc phục các hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị. Thực hiện sắp xếp, sáp nhập các xóm, tổ dân phố và tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã theo Nghị quyết số 21-NQ/TU của BTV Tỉnh ủy. Thực hiện phân công lại nhiệm vụ đối và luôn chuyển với cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là lãnh đạo cấp sở, ngành và cấp huyện. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng; hiệu quả công tác KTGS; đổi mới công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; chú trọng công tác nội chính, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; giải quyết dứt điểm các vụ việc KN-TC kéo dài. Tăng cường thực hiện dân chủ cơ sở, đối thoại với Nhân dân nhất là khi có các vấn đề bức xúc của nhân dân.
Bí thư Tỉnh uỷ Bùi Văn Tỉnh phát biểu bế mạc hội nghị.
(2) Tăng cường vai trò, hiệu quả hoạt động của HĐND; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của UBND các cấp. Triển khai quyết liệt các giải pháp CCHC, hiện đại hóa nền hành chính để tiếp tục cải thiện chỉ số PCI; hiện đại hóa hoạt động Trung tâm phục vụ hành chính công của tỉnh, theo hướng thực sự tạo ra tính đột phá trong cải cách TTHC; tăng cường kỷ luật, kỷ cương và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Đổi mới hoạt động của MTTQ và các tổ chức CT-XH; tập trung nâng cao hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền; động viên, khích lệ các tầng lớp Nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tạo đồng thuận cao trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT-XH.
(3) Rà soát các chỉ tiêu phát triển KT-XH để có giải pháp quyết liệt trong thực hiện các chỉ tiêu Nghị quyết đã đề ra, theo hướng duy trì 6 chỉ tiêu đã đạt, phấn đấu hoàn thành 9 chỉ tiêu dự báo đến năm 2020 sẽ đạt và vượt kế hoạch, tập trung cao độ để thực hiện hoàn thành 05 chỉ tiêu cốt lõi, dự báo khó hoàn thành (Tốc độ tăng GRDP bình quân; cơ cấu kinh tế; thu NSNN; số doanh nghiệp hoạt động hiệu quả; tỷ lệ đô thị hóa), cụ thể, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
* Về tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
- Các ngành, các cấp chủ động theo dõi chặt chẽ những diễn biến cụ thể từng tháng, từng quý của ngành, lĩnh vực và từng sản phẩm, nắm chắc tình hình sản xuất kinh doanh, theo dõi, động viên, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn để đẩy mạnh hoạt động SX-KD.
- Các cơ quan QLNN tích cực hỗ trợ doanh nghiệp, hộ dân doanh trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động sản xuất, từ đó khắc phục tình trạng đầu tư tự phát dẫn đến dư thừa sản phẩm; xây dựng kịch bản phát triển và sản xuất nông sản theo hướng an toàn, đầu tư lâu dài cho phát triển nông nghiệp.
- Xác định các dự án đầu tư và kêu gọi nhà đầu tư, huy động nguồn lực, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các cấp khắc phục tình trạng trì trệ, khó khăn, đề ra những giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án. Khuyến khích đổi mới sáng tạo trên các lĩnh vực.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân các nguồn vốn đầu tư; khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH dưới các hình thức hợp tác công tư (PPP) phù hợp. Lấy CCHC và chất lượng công vụ là yếu tố then chốt để thúc đẩy phát triển KT-XH.
* Về thu NSNN
- Thực hiện hiệu quả công tác tạo thêm nguồn thu NSNN, tập trung huy động các nguồn thu từ thuế, phí, chú trọng các nguồn thu từ đất và khai thác các nguồn thu từ tài nguyên khoáng sản trên địa bàn, tiền thu từ xử phạt vi phạm hành chính, phạt, tịch thu khác theo quy định của pháp luật, quản lý chặt chẽ việc bán đấu giá tài sản nhà nước; bảo đảm tỷ trọng chi đầu tư phát triển ngày càng tăng; triển khai vốn đầu tư công trung hạn theo hướng ưu tiên đầu tư để phát triển công nghiệp, hạ tầng GTVT.
- Tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo thêm đóng góp vào NSNN.
- Đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư, đặc biệt quan tâm các doanh nghiệp, các nhà đầu tư chiến lược và dự án có khả năng tạo ra nguồn thu lớn.
- Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ đưa vào SX-KD các dự án lớn, trọng điểm đã được Thường trực Tỉnh ủy dự kiến phân công các đồng chí ủy viên BTV Tỉnh ủy, Lãnh đạo UBND tỉnh trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo.
* Về số doanh nghiệp, HTX hoạt động hiệu quả
- Thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp hoạt động SX-KD có hiệu quả để giảm dần tỷ lệ các doanh nghiệp phá sản, ngừng SX-KD.
- Xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế, chính sách, quy trình, thủ tục hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Rà soát, tuyên truyền, khuyến khích các hộ kinh doanh (hiện nay đang có khoảng 33.000 hộ) thành lập doanh nghiệp.
- Xử lý nghiêm CBCC quan liêu, sách nhiễu trong quá trình giải quyết công việc liên quan đến doanh nghiệp và người dân nhằm xóa bỏ tình trạng doanh nghiệp lo ngại cán bộ gây khó khăn.
- Xây dựng hệ thống thông tin thị trường, trợ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường thông qua tổ chức các hoạt động hội chợ, triển lãm, xúc tiến thương mại.
* Tỷ lệ đô thị hóa
Triển khai quy hoạch mở rộng các thị trấn, thị tứ trên địa bàn tỉnh, cụ thể: Thực hiện nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp xã, khu vực có vị trí địa lý giáp ranh liền kề, có điều kiện thuận lợi quy hoạch phát triển đô thị trong tương lai vào đơn vị hành chính đô thị hiện có để thành lập đơn vị hành chính đô thị mới có quy mô lớn hơn, cơ bản đáp ứng tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, nâng cao tỷ lệ đô thị của tỉnh. Giao chỉ tiêu phát triển đô thị cho các huyện, thành phố.
(4) Phát triển đồng bộ, từng bước hiện đại kết cấu hạ tầng, tăng cường quản lý trật tự xây dựng, đất đai, môi trường, xây dựng đô thị văn minh, hiện đại; tập trung, quyết liệt tháo gỡ khó khăn, nhất là các hạn chế chủ quan để đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật, các công trình trọng điểm.
(5) Phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung. Triển khai mô hình "liên kết bốn nhà”; khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hộ gia đình. Có biện pháp tốt để dẫn dắt nông dân SX-KD giỏi. Có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường kiểm soát chất lượng giống, vật tư nông nghiệp.
(6) Quan tâm lãnh đạo nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách bảo trợ và an sinh xã hội, chính sách đối với người có công với cách mạng. Đảm bảo QP-AN và TTAT xã hội trong mọi tình huống, tổ chức diễn tập phòng thủ, kết hợp giữa lực lượng quân đội với công an, gắn với giải quyết nhiệm vụ của địa phương; mở rộng công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
2- Về thực hiện Chương trình hành động số 15-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của BCH Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Qua 15 năm triển khai, thực hiện Chương trình hành động số 15-CTr/TU của BCH Đảng bộ tỉnh, các cấp ủy đảng, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của phát triển kinh tế nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH khu vực nông thôn. Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. ANCT-TTAT xã hội được giữ vững. Tuy nhiên đời sống, thu njhập của người dân vẫn ở mức thấp, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn còn cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; hạ tầng nông thôn còn nhiều yếu kém; môi trường sinh thái tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm. Trong thời gian tới, cần tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn; rà soát, điều chỉnh bổ sung nâng cao chất lượng công tác quy hoạch các vùng sản xuất; xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại các vùng chuyên canh lớn, có thế mạnh. Huy động các nguồn lực hỗ trợ nông dân khởi nghiệp thành công; thành lập doanh nghiệp và hợp tác xã trong sản xuất, tiêu thụ nông sản. Chủ động giúp những nông dân sáng tạo, đi đầu trong mở rộng sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản, áp dụng KH-KT. Hỗ trợ hộ, nhóm hộ nông dân SX-KD giỏi, chủ trang trại, nông dân trẻ giỏi, làm nòng cốt trong phong trào xây dựng và phát triển KT-XH ở nông thôn. Tăng cường huy động các nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là sự tham gia, vào cuộc của các doanh nghiệp. Chú trọng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của dân cư nông thôn. Chủ động hội nhập, hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tập trung đưa công nghiệp về vùng nông thôn để chuyển dịch cơ cấu lao động. Đẩy mạnh phong trào xây dựng NTM, phấn đấu năm 2018 TP Hoà Bình , năm 2019 huyện Lương Sơn và năm 2020 huyện Lạc Thuỷ đạt chuẩn NTM. Nâng cao năng lực của bộ máy QLNN về nông nghiệp.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị lần thứ 13 BCH Đảng bộ tỉnh đã thành công tốt đẹp. Trong năm 2018 và nửa đầu nhiệm kỳ khóa XVI, đã có những chuyển biến tích cực, toàn diện trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, chúng ta tuyệt nhiên không được chủ quan, thỏa mãn, bởi vì trước mắt chúng ta vẫn đang có rất nhiều khó khăn, thách thức, vẫn còn nhiều việc khó cần phải làm và phải làm tốt hơn nữa mới có thể thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.
Tôi đề nghị từng đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ, trên cương vị công tác của mình, hãy phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm cá nhân, cùng với cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thật tốt các Kết luận của Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh lần thứ 13, góp phần hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH quý IV, cả năm 2018 và các năm tiếp theo.
Với tinh thần đó, tôi tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ 13, BCH Đảng bộ tỉnh khóa XVI. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hoàn thành tốt trọng trách trước Đảng và Nhân dân.
Trân trọng cảm ơn!