|
Tình hình kinh tế - xã hội chuyển biến tích cực
Thảo luận về kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, đại
biểu Nguyễn Thị Phúc (Bình Thuận) và nhiều đại biểu khẳng định, dù phải đối mặt
nhiều khó khăn, thách thức nhưng với định hướng, chủ trương kịp thời của Đảng,
nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt,
đồng bộ của Chính phủ, tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều chuyển biến
tích cực, toàn diện, đúng hướng và cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát
đã đề ra. Trong đó, có những điểm nhấn quan trọng, như: Kinh tế vĩ mô ổn định,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền
kinh tế tiếp tục được bảo đảm, bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ Chính
phủ, nợ nước ngoài trong giới hạn kiểm soát. Thu ngân sách vượt dự toán, hỗ
trợ cho chi đầu tư phát triển, thực hiện an sinh xã hội; cơ cấu chi ngân sách
có chuyển biến tích cực, cơ cấu đầu tư có sự chuyển dịch đúng hướng với sự
gia tăng đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân... Với 12 chỉ tiêu QH giao, dự kiến
có tám chỉ tiêu vượt và bốn chỉ tiêu đạt kế hoạch.
Các ý kiến cũng cho rằng, sau ba năm thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, nền kinh tế giữ được nhịp tăng trưởng tốt,
tốc độ tăng trưởng trung bình GDP là 6,57%, quy mô nền kinh tế tăng gấp 1,3 lần
so với năm 2015. Dự trữ ngoại tệ đạt kỷ lục 60 tỷ USD, nợ công giảm từ 63,7%
(năm 2016) xuống còn 61,4% (năm 2018), nợ xấu giảm từ 24,46% xuống còn 2%. Việt
Nam đứng đầu thế giới về xuất khẩu hồ tiêu, điều, cá ba sa; đứng thứ hai về
xuất khẩu cà-phê, đứng thứ ba về xuất khẩu gạo, tôm, đứng thứ năm về xuất khẩu
lâm sản… Tinh giản tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị đạt kết quả bước
đầu khả quan và tích cực; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí được đẩy mạnh và có kết quả rõ nét; quốc phòng
an ninh được giữ vững. Mạng lưới các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác
chiến lược toàn diện được củng cố và mở rộng; quan hệ với các nước từng bước
đi vào chiều sâu. Kết quả tích cực này đã tạo ra hiệu ứng lan tỏa trên nhiều
lĩnh vực, giúp củng cố và tăng cường niềm tin trong nhân dân và cho các nhà đầu
tư trong nước và ngoài nước.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng
Đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) và nhiều đại biểu cho rằng,
dù nợ công đã giảm nhưng nợ nước ngoài và nợ Chính phủ có xu hướng tăng qua
các năm. Điều đó cho thấy tăng trưởng kinh tế thời gian qua chủ yếu vẫn dựa
vào vốn, lao động giá rẻ, chế biến thô tài nguyên và phụ thuộc vào đầu tư nước
ngoài. Hơn nữa, nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước này còn lớn, xuất khẩu
còn phụ thuộc lớn vào khu vực FDI. Du lịch xác định là ngành kinh tế mũi nhọn,
nhưng sự đóng góp cho tăng trưởng, ngân sách chưa tương xứng và còn bất cập,
việc thực hiện chủ trương phát triển bền vững kinh tế biển còn một số vướng mắc,
hạn chế. Tình trạng thất thu thuế, nhất là ở khu vực ngoài quốc doanh chậm được
cải thiện, trong khi nợ đọng thuế còn lớn và có xu hướng tăng so với năm
2017. Cơ cấu chi ngân sách gắn với đổi mới khu vực sự nghiệp công lập theo cơ
chế tự chủ còn chậm, hầu hết các lĩnh vực sự nghiệp công chi thường xuyên vẫn
bao cấp. Chín tháng đầu năm, số doanh nghiệp thành lập mới tăng thấp, nhưng số
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, giải thể lại tăng so với cùng kỳ.
Một số đại biểu cho rằng, tăng trưởng GDP tuy đạt mục tiêu QH
giao, nhưng ở một số khu vực chưa đạt mục tiêu của Chính phủ. Cụ thể, khu vực
công nghiệp xây dựng, mục tiêu Chính phủ là tăng 7,7%, nhưng ước thực hiện đạt
7,59%; khu vực dịch vụ tăng 7,4%, nhưng ước thực hiện được 7,35%. Bên cạnh
đó, một số chỉ tiêu về tăng trưởng đạt thấp hơn năm 2017 và chưa đạt so với mục
tiêu của Chính phủ, như: mục tiêu tăng năng suất lao động đạt hơn 6%, nhưng
thực hiện chỉ đạt 5,5%; mục tiêu đóng góp các nhân tố tổng hợp là 46%, nhưng
thực hiện đạt 40,23%... Bên cạnh đó, tỷ lệ về thu, chi ngân sách nhà nước, tỷ
lệ thu từ thuế và phí chưa đạt so với nghị quyết QH, thu cả năm ước tăng 3% dự
toán, nhưng thu ở ba khu vực kinh tế đều thấp hơn dự toán, một số địa phương
thu không đạt kế hoạch. Cơ cấu chi thường xuyên vẫn ở mức cao, ước chi cả năm
là 63,3% tổng chi, tuy thấp hơn dự toán nhưng vẫn cao hơn năm 2017 (62,46%).
Đại biểu Ngô Sách Thực (Bắc Giang) và nhiều ý kiến phản ánh tình trạng thất
thoát, lãng phí trong đầu tư công còn lớn. Đầu nhiệm kỳ Chính phủ, dư luận bức
xúc về 12 dự án thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng do Bộ Công thương quản lý, đến nay
lại phát sinh các dự án kém hiệu quả khác, như: dự án đường cao tốc Đà Nẵng -
Quảng Ngãi hơn 34 nghìn tỷ đồng vừa nghiệm thu thông xe chỉ sau ít ngày đã hư
hỏng; dự án đường sắt tuyến đô thị Cát Linh - Hà Đông có tổng mức đầu tư ban
đầu là hơn 8.769 tỷ đồng, đã điều chỉnh tăng thêm hơn 18.001 tỷ đồng (tăng
205,27%); dự án đường sắt đô thị tuyến Bến Thành - Suối Tiên với tổng mức đầu
tư ban đầu là hơn 17.387 tỷ đồng, đã điều chỉnh tăng thêm 47.325 tỷ đồng, dự
kiến hoàn thành đưa vào sử dụng cuối năm 2018, nhưng đến nay chỉ hoàn thành
52% khối lượng công việc…
Các ý kiến nhấn mạnh, thời gian tới, bên cạnh các nhóm nhiệm vụ,
giải pháp như Chính phủ đề xuất, cần tiếp tục bảo đảm các cân đối lớn của nền
kinh tế, kiểm soát lạm phát; tập trung cơ cấu lại ngân sách nhà nước, kiểm
soát chặt chẽ thu, chi, giảm bội chi. Kiên quyết không để thất thu từ khu vực
ngoài quốc doanh, trong khai thác tài nguyên, khoáng sản. Tập trung đẩy nhanh
tiến độ triển khai các dự án quan trọng quốc gia. Bên cạnh đó, tiếp tục cải
thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh, giảm chi phí cho doanh nghiệp; đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; đẩy mạnh cải cách hành chính, tư pháp, phòng, chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thảo luận về kết quả ba năm thực hiện các chính sách hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTSMN), nhiều đại
biểu đánh giá, hiện nay có 118 chính sách trực tiếp đang có hiệu lực, bao phủ
hầu hết trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội và 21 chương trình mục tiêu gián
tiếp tác động đến vùng DTTSMN, giúp đời sống kinh tế - xã hội của các dân tộc
không ngừng được nâng lên. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo khu vực này vẫn cao, chiếm
khoảng 52% tổng số hộ nghèo cả nước, tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở cho
đồng bào dân tộc thiểu số nghèo vẫn còn nhức nhối. Hiện có 221.754 hộ đồng
bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất và 80.960 hộ thiếu đất ở. Đại biểu
Triệu Thị Huyền (Yên Bái) và nhiều đại biểu cho rằng, những bất cập này có
nguyên nhân do chính sách thực hiện ổn định dân cư chậm được đổi mới và thiếu
nguồn lực thực hiện. Đồng thời, cũng cần rà soát lại các chương trình, chính
sách hỗ trợ để khắc phục tính ngắn hạn, thiếu chiến lược, thiếu khả thi,
không tạo ra nguồn lực phát triển, chưa khuyến khích đồng bào dân tộc thiểu số
vươn lên thoát nghèo bền vững.
Hiện nay, khi nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nguồn nước
và rừng đang ngày càng suy giảm, việc đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
vùng DTTSMN là rất cần thiết. Nhiều đại biểu đề nghị Chính phủ quan tâm tiếp
tục thực hiện chính sách đào tạo nghề phù hợp kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của từng vùng miền, gắn với các sản phẩm theo chuỗi liên kết gắn với
thị trường; đổi mới nội dung, phương pháp dạy nghề. Chỉ đạo các bộ, ngành, địa
phương thường xuyên làm tốt việc quản lý, theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ người
dân để người dân nắm bắt thị trường lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi. Bên cạnh
đó, quan tâm hơn nữa đến công tác bảo vệ và phát triển rừng ở các tỉnh vùng
DTTSMN khi triển khai các chính sách, bố trí đủ kinh phí cho công tác bảo vệ
và trồng rừng nhằm tăng diện tích, chất lượng rừng, tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập từ nghề rừng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững,
bảo đảm an sinh xã hội.
Tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Nguyễn Xuân Cường, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ đã phát
biểu ý kiến giải trình một số nội dung được đại biểu QH nêu.
Tôi chưa thật sự an tâm và lo lắng trước nhiều khó khăn, thách
thức đã và đang đặt ra trong thời gian tới. Chất lượng tăng trưởng ít được cải
thiện; sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công, nhất là sản
xuất nông nghiệp chưa phát huy được lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, đồng
thời còn chịu nhiều rủi ro về thị trường, dễ bị tổn thương. Cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 chưa thật sự lan tỏa trong nền kinh tế. Những hạn chế nêu
trên không chỉ làm mất lợi thế mà đang hình thành những yếu tố bất lợi trong
điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và trước cuộc cạnh tranh thương mại, bảo
hộ mậu dịch diễn biến khó lường.
Đại biểu TRẦN TRÍ QUANG
(Đồng Tháp)
Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, qua kết quả kiểm toán chín
tháng đầu năm nay của 140 báo cáo kiểm toán đã được xét duyệt, đã kiến nghị xử
lý vi phạm về tài chính là hơn 56 nghìn tỷ đồng. Điều này cho thấy những sai
phạm là quá lớn. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong quản lý, sử dụng tài
nguyên, tài chính, ngân sách quốc gia, vốn đầu tư công trong cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước làm cho đại biểu QH, cử tri và nhân dân chưa thể yên
tâm. Bên cạnh đó, Báo cáo của Kiểm toán Nhà nước và Báo cáo thẩm tra của Ủy
ban Tài chính, Ngân sách của QH cũng cho thấy việc chấp hành xử lý các kiến
nghị của Kiểm toán Nhà nước về tài chính còn rất hạn chế. Cụ thể năm 2018 mới
thực hiện được 50 trong số 90 nghìn tỷ đồng, bằng 55% số kiến nghị của Kiểm
toán Nhà nước (kiểm toán năm 2017 đối với niên độ ngân sách 2016). Đáng lưu ý
là tình trạng này kéo dài trong nhiều năm và chưa có dấu hiệu dừng lại. Điều
đó cho thấy kỷ cương, kỷ luật hành chính trong thực hiện các kiến nghị của kiểm
toán còn rất hạn chế.
Đại biểu NGUYỄN TIẾN SINH
(Hòa Bình)
|
TheoNhandan