"Chất xúc tác” của bạo lực gia đình, tai nạn giao thông
Tại Việt Nam, rượu, bia xếp thứ 5 trong 15 yếu tố nguy cơ sức khỏe hàng đầu. Số liệu thống kê chưa đầy đủ cho thấy năm 2012 có 8,3% số trường hợp tử vong liên quan đến sử dụng rượu, bia, 71,7% trường hợp tử vong do xơ gan ở nam do sử dụng rượu, bia. Thống kê tại Viện Sức khỏe tâm thần Trung ương cho thấy, tỷ lệ điều trị tâm thần do rượu chiếm 5-6% số bệnh nhân tâm thần và có xu hướng gia tăng. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), rượu là nguyên nhân của 31% vụ án gây thương vong, 33% vụ hiếp dâm tại Việt Nam.
TS Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho biết, khoảng gần 30% số vụ gây rối trật tự xã hội, 33,7% các vụ bạo lực gia đình có nguyên nhân xuất phát từ việc sử dụng rượu, bia.
Trong một nghiên cứu mới đây ghi nhận, gần 70% người trả lời đã phải chịu một/một số tác hại từ người uống rượu, bia xung quanh mình (bạn bè, người quen, đồng nghiệp, người lạ và đặc biệt là người thân trong gia đình); 21% cha mẹ/người chăm sóc chính cho biết trẻ em trong gia đình đã chịu tác hại từ việc sử dụng rượu bia của người xung quanh và 14% gia đình có trẻ đã chịu ít nhất một trong năm tác hại liên quan gồm bị người uống rượu bia đánh đập, phải chứng kiến bạo lực nghiêm trọng liên quan đến rượu, bia trong gia đình, bị bỏ mặc, thiếu sự chăm sóc bảo vệ của người lớn, gia đình không còn tiền để chi cho các nhu cầu thiết yếu cho trẻ do thành viên hộ gia đình sử dụng rượu bia gây ra.
Trong số các hộ gia đình có người uống rượu bia, 10-15% hộ gia đình phải đối mặt với các vấn đề: bạo lực gia đình liên quan đến rượu, bia, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình bị ảnh hưởng; người uống rượu bia không muốn/không đủ sức khỏe để lao động, kiếm sống; người uống rượu bia không muốn/không đủ sức khỏe để đảm đương các công việc gia đình.
Tình trạng bạo lực gia đình và thành viên hộ gia đình bị chấn thương liên quan đến rượu bia xảy ra phổ biến hơn ở các gia đình có người uống ở mức có hại; Bạo lực gia đình liên quan đến rượu bia cũng xuất hiện nhiều hơn ở hộ có mức sống thấp. Tác hại từ việc sử dụng rượu bia của người lớn đối với trẻ em được ghi nhận phổ biến hơn ở các hộ gia đình ở nông thôn, thu nhập thấp và có người sử dụng nhiều rượu bia.
Nghiêm trọng hơn, phụ nữ và trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số đang là đối tượng gánh chịu tác hại từ việc sử dụng rượu bia của người xung quanh, đặc biệt là người trong gia đình. Trong đó, 50% phụ nữ cho biết người uống rượu bia nhiều gây các ảnh hưởng bất lợi nhiều nhất đến bản thân họ là người thân trong gia đình, cao gấp 7 lần so với ở nam giới (14,9%). 44,2% phụ nữ cho biết chồng/bạn tình là người uống rượu bia nhiều gây ảnh tiêu cực nhất, cao gấp 12,8 lần so với nam giới (6%).
Rượu, bia là một trong ba nguyên nhân hàng đầu làm gia tăng tỷ lệ tai nạn giao thông tại Việt Nam ở nam giới độ tuổi 15-49. Năm 2014, WHO cho biết tai nạn giao thông liên quan đến rượu bia tại Việt Nam ước tính chiếm 36,2% ở nam giới và 0,7% ở nữ giới. Nghiên cứu của WHO trên 18.412 nạn nhân tai nạn giao thông nhập viện thì 28% người đi xe máy có nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (50 mg/dl), 66,8% người lái xe ô tô có nồng độ cồn trong máu cao hơn mức cho phép (0 mg/dl).
Theo số liệu thống kê mới nhất, trung bình mỗi năm Việt Nam có 15.000 người chết vì tai nạn giao thông, trong đó 4.800 trường hợp có liên quan đến rượu, bia.
Không thể làm ngơ trước tác hại của việc lạm dụng bia, rượu
TS Nguyễn Huy Quang cho biết, mặc dù mức sử dụng rượu bia bình quân đầu người của Việt Nam thấp hơn một số nước nhưng tỷ lệ người lớn và trẻ em ở Việt Nam chịu tác hại từ việc sử dụng rượu bia của người khác trong 12 tháng qua lại thuộc nhóm hai nước cao nhất.
Pháp luật về quản lý đối với sản phẩm rượu, bia hiện mới chỉ chủ yếu tập trung vào các quy định về kiểm soát sản xuất, kinh doanh, nhằm giảm thiểu hậu quả của sử dụng rượu, bia mà chưa có các quy định mang tính phòng ngừa (Nghị định số 105/2017/NĐ-CP về kinh doanh rượu). Chỉ khi việc sử dụng rượu, bia dẫn đến các hậu quả xấu trong các quan hệ xã hội như tham gia giao thông khi có sử dụng rượu bia, có hành vi vi phạm pháp luật hành chính, hình sự do sử dụng rượu, bia hoặc vi phạm các điều kiện sản xuất, kinh doanh thì mới bị xử lý.
Trong khi đó, các nội dung khác như tuyên truyền, giáo dục; các quy định về hạn chế tuổi sử dụng, giờ bán, địa điểm bán, kiểm soát quảng cáo, khuyến mại, tài trợ rượu, bia, in cảnh báo sức khỏe trên bao bì, các biện pháp giảm nhu cầu sử dụng rượu, bia, các biện pháp kiểm soát nguồn cung cấp rượu, bia nhằm mục đích phòng, chống tác hại của rượu, bia, quản lý chặt chẽ đối với rượu, bia đều chưa được quan tâm đúng mức.
Theo khuyến cáo của WHO, để kiểm soát rượu bia, Việt Nam cần phải thực hiện ba nhóm giải pháp cơ bản để giảm tính sẵn có của rượu, bia gồm có hệ thống chính sách và pháp luật đầy đủ nhằm kiểm soát tác hại của rượu, bia; tuyên truyền thường xuyên, liên tục về nguy cơ, hậu quả, biện pháp phòng ngừa và tăng cường năng lực cho công tác cưỡng chế thực thi các chính sách liên quan.
Trong đó, quan trọng nhất là Việt Nam cần có một Luật riêng để kiểm soát tác hại của rượu bia. Việt Nam đã xây dựng dự thảo Luật Phòng chống tác hại rượu, bia với ba mục tiêu gồm kiểm soát quảng cáo; giảm tính sẵn có của rượu bia; tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, tăng giá bán rượu bia.
Tuy nhiên, sau nhiều lần sửa đổi, dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV không đề cập tới nội dung tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với loại đồ uống có cồn này.
TS Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế nhận định, dự thảo Luật thực tế "yếu” so với khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới – WHO. Luật ban đầu mang tính tuyên ngôn, quan điểm của Nhà nước với phòng, chống tác hại rượu bia, giảm tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến không lây nhiễm trong đó có tim mạch, ung thư, tâm thần. Luật này sẽ mang thông điệp truyền thông mạnh mẽ nhằm thay đổi hành vi uống rượu bia, bảo đảm sức khỏe và làm tăng ý thức doanh nghiệp về kinh doanh rượu bia, cửa hàng bán rượu bia.
Ban tang lễ và gia đình vô cùng thương tiếc báo tin: