(HBĐT) - Nhắc đến Đề cương về văn hóa Việt Nam (VHVN), không thể không nhắc đến ba nguyên tắc quan trọng được nêu trong văn kiện này: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho VHVN phát triển độc lập);Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương, hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì khiến cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).
Trong suốt chiều dài lịch sử, các cấp ủy Đảng, chính quyền trong tỉnh luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Ảnh: Các nghệ nhân, diễn viên trình tấu chiêng Mường tại lễ hội Khai hạ dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình, năm 2023.Ảnh: H.D
Tinh thần thời đại
Tuy vậy, đứng từ góc nhìn lịch sử thì những vấn đề này đã xuất hiện trong đời sống VHVN từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước. Trong những tôn chỉ của Tự lực văn đoàn công bố giữa năm 1933, những người thành lập văn phái này nhấn mạnh chủ trương làm một thứ văn chương "theo chủ nghĩa bình dân”, "ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quý phái”. Đồng thời, Tự lực văn đoàn cũng coi việc "đem khoa học thái Tây ứng dụng vào văn chương Annam” là một trong những tôn chỉ của mình. Điều đó cho thấy dưới hình thức các khái niệm "bình dân”, "nước” và "khoa học thái Tây”, vấn đề "dân tộc”, "khoa học” và "đại chúng” cũng đã được những người chủ trương Tự lực văn đoàn dự cảm.
Và Đề cương về VHVN cũng không phải là bản cương lĩnh văn hóa duy nhất ở Việt Nam những năm 40. Tháng 7/1945, Trương Tửu, linh hồn của nhóm Hàn Thuyên cũng biên soạn Tương lai văn nghệ Việt Nam. Trong Tương lai văn nghệ Việt Nam, Trương Tửu nhấn mạnh bốn yếu tính của "tân văn nghệ”: yếu tính "cách mạng”, "xã hội chủ nghĩa”, "đại chúng” và "khoa học”…
Nhắc lại những sự kiện trên, chúng ta càng thấy rõ một điều, đó là, nhu cầu cần có một nền văn hóa mới, mang tinh thần hiện đại, tiếp nhận được những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, hướng đến đại chúng là một nhu cầu tất yếu mang tính thời đại. Được đặt ra từ đầu thế kỷ XX với những khẩu hiệu về "quốc văn”, "quốc học”, "quốc hồn”,… chỉ đến những năm 30 của thế kỷ trước, khi xã hội Việt Nam đã mạnh mẽ chuyển mình theo hướng hiện đại và đặc biệt, với sự xuất hiện của một lớp trí thức vừa có căn bản văn hóa truyền thống, vừa tiếp nhận văn hóa phương Tây, thì những đường hướng của nền văn hóa mới mới thực sự định hình. Những hình dung về "dân tộc hóa”, "khoa học hóa” và "đại chúng hóa” của Đề cương VHVN phản ánh chính tinh thần thời đại, nhu cầu thời đại, sự vận động có tính tất yếu của thời đại những năm 30, 40 của thế kỷ trước...
Tính tiên phong
Dẫu vậy, bên cạnh tinh thần thời đại, có thể khẳng định, Đề cương về VHVN là cương lĩnh văn hóa mang tính tiên phong nhất của Việt Nam lúc bấy giờ. Tính tiên phong đó trước hết thể hiện ở tính toàn diện và triệt để của bản Đề cương. Tự lực văn đoàn và nhiều nhóm trí thức, văn nghệ sĩ lúc bấy giờ thường chỉ giới hạn văn hóa trong địa hạt của văn nghệ nhưng với Đề cương về VHVN, vấn đề văn hóa được Đảng nhìn trong một tổng thể "bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”, trong tổng thể mối quan hệ giữa hạ tầng cơ sở và thượng tầng kiến trúc, giữa cách mạng văn hóa và cách mạng chính trị.
Hơn thế nữa, Đề cương là một cương lĩnh mang tính hành động khi chỉ ra được những nguy cơ cụ thể của VHVN lúc đó và những cuộc đấu tranh cụ thể mà người làm văn hóa phải đảm đương để xây dựng nền văn hóa mới. Đề cương về VHVN không tư biện như Tương lai văn nghệ Việt Nam mà là một chương trình mang tính hành động và quan trọng hơn hết, đó là sự phát triển về chất so với tất cả những cương lĩnh văn hóa cùng thời. Dù có những thời điểm xung đột về tư tưởng rất gay gắt nhưng trong quan niệm của những người chủ trương Tự lực văn đoàn và những người chủ trương Hàn Thuyên, có một điểm chung: Chủ nghĩa cá nhân. Tuyên ngôn của nhà Tự lực dành một điều để nhấn mạnh "trọng tự do cá nhân” và khẳng định thành viên của Tự lực "theo một trong chín điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều khác”. Còn với Trương Tửu, ông khẳng định "công trình sáng tạo văn nghệ không chịu được sự chỉ huy nào ngoài sự chỉ huy của chính kẻ sáng tạo. Nó đòi hỏi sự tự do tuyệt đối của nghệ sĩ”.
Đề cương về VHVN mang một sự khác biệt về chất so với những quan điểm mang tính dân chủ tư sản về văn hóa đó. Đề cương khẳng định "mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải hoạt động” và "nhiệm vụ cần kíp của những nhà làm văn hóa” là "thống nhất mọi hoạt động văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản mác xít”. Có thể nói, đây là hạt nhân quan trọng nhất quyết định giá trị của bản Đề cương với tư cách một cương lĩnh hành động và là kim chỉ nam trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa, văn nghệ XHCN ở Việt Nam sau năm 1945.
Thực tiễn lịch sử suốt hai thế kỷ vừa qua đã chứng minh tính đúng đắn của Đề cương về VHVN. Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công và sau đó không lâu, Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, có một thực tế đầy xúc động đã diễn ra: Đại bộ phận văn nghệ sĩ, trí thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau, thậm chí, đối lập nhau trước năm 1945 đều tình nguyện đi theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản để trở thành những người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ và đa phần, kiên định đi theo con đường đó đến hơi thở cuối cùng, bất chấp những sóng gió của thời cuộc đôi khi đẩy người nghệ sĩ đến những thử thách vô cùng nghiệt ngã.
Thành công lớn lao đó của Đảng về văn hóa văn nghệ, một phần quan trọng, do tính tiên phong và tính đúng đắn của bản Đề cương. Bên cạnh đó, cũng không thể bỏ qua vai trò của công tác tổ chức các đoàn thể với một cơ quan vô cùng quan trọng có sự góp mặt của những văn nghệ sĩ, trí thức hàng đầu Việt Nam lúc bấy giờ: Hội văn hóa cứu quốc. Điều đó cũng cho thấy một bài học xương máu đó là một cương lĩnh chính trị, dù tiến bộ và đúng đắn đến mấy cũng chỉ có thể thành công nếu được triển khai bằng một chương trình hành động hiệu quả, phát huy được trí tuệ của toàn dân tộc, một bài học mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tiếp thu và kế thừa
80 năm đã qua kể từ khi Đề cương về VHVN ra đời. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, những nguyên tắc cơ bản của Đề cương vẫn vẹn nguyên giá trị. Như nhiều văn kiện của Đảng đã khẳng định, một dân tộc chỉ có thể tồn tại bền vững và độc lập khi đặt nền tảng trên nền văn hóa mang tinh thần dân tộc, hấp thu được những thành tựu tiến bộ của nhân loại và hướng đến đại đa số nhân dân. Nếu như tinh thần khoa học thể hiện tính tiến bộ của bản Đề cương thì tinh dân tộc và tinh thần đại chúng thể hiện tính nhân bản của văn kiện khi mà nó đề cao sự bình đẳng, quyền tự quyết, quyền độc lập về văn hóa của dân tộc và quyền được hưởng thụ văn hóa của từng cá nhân trong xã hội.
Tất nhiên, lịch sử cũng cho thấy trong hoàn cảnh ngày nay, cần có một cái nhìn mới trong việc tiếp cận những giá trị của Đề cương về VHVN… Trong thời đại ngày nay, bên cạnh việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của chế độ, đấu tranh chống các tư tưởng sai trái thì việc tìm hiểu có hệ thống, đối thoại, tiếp thu thành tựu của những khuynh hướng tư tưởng, nghệ thuật phi Mác xít và trước Mác xít trên một tinh thần khoan dung và biện chứng lịch sử đã trở thành một yêu cầu quan trọng. Có như vậy, chúng ta mới có thể có được những kiến giải mới mang tinh thần thời đại, tiến bộ của chủ nghĩa Mác trong hoàn cảnh hiện nay, điều mà chính Đề cương đã khẳng định về tinh thần "khoa học hóa”.
Bên cạnh đó, cũng cần có một hình dung mới về tinh thần "đại chúng hóa” của Đề cương về VHVN. Đúng như Trương Tửu đã viết trong Tương lai văn nghệ Việt Nam, "lẽ sống của chúng ta - của văn nghệ là đi vào đại chúng, sát cánh với đại chúng trong cuộc chiến đấu xã hội và nâng cao ý thức XHCN trong tâm hồn đại chúng”. Một nền văn hóa bỏ qua tính đại chúng sẽ là để mặc thị hiếu của Nhân dân cho những sản phẩm văn hóa kém chất lượng xâm chiếm, nhưng "đại chúng hóa” một cách bền vững không thể tách rời vấn đề phổ cập giáo dục thẩm mỹ và văn hóa, tạo môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao trình độ hưởng thụ thẩm mỹ của công chúng.
Gần một thế kỷ từ ngày ra đời Đề cương về VHVN, lịch sử với tất cả những vinh quang và cay đắng của nó nhắc chúng ta rằng những bài học lịch sử càng giá trị càng phải được ôn lại trong một tinh thần lý tính và biện chứng để quá khứ luôn là một dự trữ đầy giá trị cho hiện tại.
(Trích theo Báo Văn hóa.vn)
Ngày 1/3/2023, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp để xem xét và cho ý kiến về công tác cán bộ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định như sau:
(HBĐT) - Ngày 1/3, Bộ CHQS tỉnh tổ chức Lễ ra quân huấn luyện năm 2023 và phát động thi đua cao điểm kỷ niệm 75 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948 - 11/6/2023). Dự lễ phát động có các đồng chí: Bùi Đức Hinh, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Bùi Văn Khánh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ngành.
Tối 28/2, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dự Chương trình nghệ thuật đặc biệt với chủ đề "Đề cương văn hóa Việt Nam - Những dấu ấn lịch sử" diễn ra tại Nhà hát lớn Hà Nội.
Sáng 28/2, tại Nhà Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã tiếp Ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Chủ tịch Quốc hội Lào Khambay Damlath.
(HBĐT) - Ngày 27/2, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo T.Ư, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hội đồng Lý luận T.Ư phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia 80 năm Đề cương về văn hoá Việt Nam (1943 – 2023) - Khởi nguồn và động lực phát triển.
(HBĐT) - Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc tại tỉnh Hòa Bình, chiều 26/2, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ đã làm việc với lãnh đạo chủ chốt tỉnh Hòa Bình. Tham gia buổi làm việc có đồng chí Hồ Đức Phớc, Ủy viên BCH T.Ư Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính; lãnh đạo các bộ, ngành T.Ư. Làm việc với đoàn công tác Chính phủ có các đồng chí: Nguyễn Phi Long, Ủy viên dự khuyết BCH T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Bùi Đức Hinh, Phó Bí thư TT Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Bùi Văn Khánh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; các đồng chí trong BTV Tỉnh ủy; BCH Đảng bộ tỉnh; Thủ trưởng các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố.