Những lon sữa đặc Ông Thọ một thời là hàng xa xỉ phẩm nay có mặt ở mọi vùng miền đất nước và xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Nhà máy Angkor Milk của Vinamilk tại Campuchia ra lò mẻ sản phẩm sữa đặc đầu tiên trong ngày khánh thành

 

Đầu tháng 7, nhà máy sữa Driftwood tại Mỹ do Vinamilk sở hữu 100% vốn giới thiệu sữa đặc và creamer tại hội chợ Fancy Food Show. Đây là một trong những hội chợ lớn nhất về ngành thực phẩm tại Mỹ, thu hút hàng nghìn doanh nghiệp uy tín trong lĩnh vực chế biến, sản xuất thực phẩm từ nhiều quốc gia tham dự.

 

Kết thúc hội chợ, các sản phẩm này đưa vào bán tại các siêu thị ở bang Arizona và California. Đặt chân vào thị trường Mỹ không dễ dàng. Sữa đặc và creamer sản xuất tại Việt Nam phải đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với ngành thực phẩm nói chung và ngành hàng sữa nói riêng, được FDA và USDA công nhận chất lượng, cấp giấy phép nhập khẩu.

Trước đó, sản phẩm sữa đặc Vinamilk đã xuất sang Nhật, Canada, Hàn Quốc, khu vực Trung Đông, ASEAN, châu Phi…. với nhãn hiệu Ông Thọ, Bestcows, Angle, Captian, Driftwood, Ngôi Sao Phương Nam…, chiếm tỷ trọng 34% về sản lượng xuất khẩu năm 2015.

Bà Mai Kiều Liên - Tổng giám đốc Vinamilk nhìn nhận, vị thế hiện nay là "quả ngọt" từ việc kiên trì xây dựng nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ trong 40 năm. Công ty đang sở hữu 13 nhà máy tại Việt Nam, 3 nhà máy ở Mỹ, New Zealand và Campuchia. Trong đó, 4 nhà máy tại Việt Nam và một nhà máy ở Campuchia sản xuất sản phẩm sữa đặc với tổng công suất hơn 300 triệu lon một năm, đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.

Cuộc hành trình của sữa đặc bắt đầu từ sau giải phóng, khi Vinamilk tiếp quản 3 nhà máy tại miền Nam gồm nhà máy Thống Nhất, nhà máy Trường Thọ và nhà máy Dielac. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thiết bị công nghệ cũ kỹ, không có nguồn ngoại tệ nhập khẩu nguyện liệu nên doanh nghiệp hoàn toàn thụ động trong sản xuất. Các nhà máy chỉ chạy chưa tới 1/20 công suất, sản xuất cầm chừng vài nghìn lon sữa mỗi tháng.

"Thời kỳ này, sữa đặc được xem như hàng xa xỉ phẩm do quá khan hiếm và đắt đỏ. Hộp sữa đặc phân phối theo tiêu chuẩn, dù vỏ lon khi đến tay người tiêu dùng nhiều lon bao bì đã ố vàng nhưng vẫn là niềm ao ước của biết bao người. Chỉ những người ốm hay trẻ nhỏ, người già mới được uống cốc sữa để bồi bổ sức khỏe", bà Mai Kiều Liên nhớ lại.

Để giải quyết khó khăn, lãnh đạo Vinamilk chủ động liên doanh liên kết với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có ngoại tệ mạnh, đặc biệt là Seaprodex. Song song đó, công ty cho ra mắt nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ. Đây là dòng sản phẩm cao cấp, bán tại các cửa hàng Cosevina và Imexco nhằm xuất khẩu tại chỗ lấy ngoại tệ nhập nguyên liệu. Kết quả, từ vài trăm triệu đồng ban đầu, công ty đã nâng vốn tự có lên 20 tỷ đồng vào năm 1987, gia tăng sản lượng, doanh thu vượt kế hoạch.

Thành công vừa mới đạt lại vụt mất vào đầu những năm 1990. Do cấm vận kinh tế nên Vinamilk không nhập được phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất, bị động nguồn nguyên liệu. Kỹ sư và công nhân đã cùng nhau vượt khó bằng cách tự thiết kế hình Ông Thọ dập nổi, sáng tạo gia công khuôn nắp lon sữa, tận dụng phế liệu chiến tranh như xác xe tăng, nòng pháo...

"Chúng tôi 'mù' thông tin về giá cả thị trường thế giới, trong khi nguyên liệu lại nhập khẩu hoàn toàn, không giao lưu trao đổi với bên ngoài, bị động nguồn vốn ngoại tệ mạnh. Làm sao có thể giảm giá mua, từ đó giảm giá thành sản phẩm là bài toán khó", bà Liên nói.

Từ những năm 1990, Vinamilk tìm hiểu và ký hợp đồng tại các nước sở tại và mua trực tiếp nguồn nguyên liệu bột sữa, dầu bơ…, với giá rẻ hơn vài trăm USD mỗi tấn so với giá nhập qua các công ty xuất nhập khẩu. Nhờ vậy, giá thành sản phẩm giảm, cạnh tranh với hàng ngoại nhập.

Mặt khác, Vinamilk đã lên kế hoạch phát triển hệ thống trang trại bò sữa trong nước nhằm từng bước tự chủ nguồn nguyên liệu.

Sau khi cấm vận kinh tế được bãi bỏ, Vinamilk bước sang giai đoạn phát triển mới. Doanh nghiệp nhập máy móc hiện đại nhằm đẩy mạnh sản lượng và tăng cường chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong nước. Mô hình liên kết với người nông dân mở rộng vùng chăn nuôi, đồng thời tự mình hình thành các trang trại chăn nuôi bò sữa từ Bắc chí Nam giúp tổng đàn từ 3.000 con năm 1991 đã vượt lên trên 120.000 con năm 2016, cho sản lượng sữa 200.000 tấn một năm.

"Đây là bước ngoặt quan trọng. Nhờ vậy, Vinamilk chủ động nguồn nguyên liệu sữa cho sản xuất. Chiến lược kết hợp hiện đại hóa máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hàng đầu thế giới cùng vùng nguyên liệu từ 1991-2003 đã giúp công ty chiếm đến 75% thị phần sữa đặc", bà Liên kể.

 

 

 Sản phẩm sữa đặc của Vinamilk phát triển đa dạng về bao bì với lon thiếc, bao bì hộp giấy và bao bì dạng vỉ nhựa

Sau khi cổ phần hóa vào năm 2003, sữa Ông Thọ vẫn là sản phẩm chủ lực của Vinamilk, luôn nằm trong top hàng Việt Nam chất lượng cao. Để theo kịp thị hiếu người dùng thay đổi, công ty mở rộng danh mục sản phẩm, cải tiến mẫu mã, chất lượng, phong phú về chủng loại cho phù hợp với từng nhu cầu sử dụng khác nhau.

Phân khúc nội địa nhiều sản phẩm sữa đặc đã ra đời như Ông Thọ trắng nắp mở nhanh, Ông Thọ đỏ, Ông Thọ chữ xanh, Ngôi Sao Phương Nam xanh lá, đỏ, cam và xanh biển. Khi xuất khẩu, sản phẩm sữa đặc của Vinamilk cũng mang nhiều tên khác nhau như Bestcows, Angle, Captain, Driftwood…

Về bao bì cũng đa dạng chủng loại và thể tích như bao bì lon thiếc 380g, bao bì hộp giấy loại một lít và bao bì dạng vỉ nhựa nhỏ 40g dùng một lần. Thiết kế lon từ dạng bình thường chuyển sang lon có gân, giúp giảm độ dày của thiếc, tiện dụng khi chất xếp. Nhãn mác trên lon thiếc cải tiến từ nhãn giấy thông thường qua nhãn giấy bóng cao cấp tạo phong cách sang trọng, đẹp mắt.

"Qua 40 năm, sữa đặc Vinamilk nói chung sản phẩm sữa đặc Ông Thọ nói riêng trở nên gần gũi và thân quen với người tiêu dùng Việt Nam qua hình ảnh ly cà phê sữa nóng mỗi sáng hay món bánh flan thơm ngon, hình ảnh tuổi thơ ăn bánh mì chấm sữa, cùng yaourt mát lành do các bà nội trợ chế biến tại gia. Đây cũng là sản phẩm nằm trong chế độ bồi dưỡng độc hại cho nhiều công nhân trên toàn quốc", bà Liên chia sẻ.

Ước tính trong hơn 300 triệu lon sữa xuất xưởng trong năm nay, khoảng 34% sẽ dành cho xuất khẩu./.

 

 

 

                                                                     Theo VOV.VN

Các tin khác

Không có hình ảnh
Không có hình ảnh
Đồng chí Bùi Văn Khánh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.

Giá trị sản xuất công nghiệp 7 tháng đạt 13.800 tỷ đồng

(HBĐT) - Theo Sở Công Thương, sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng 7 giữ mức tăng trưởng khá, đặc biệt sản lượng điện của Công ty Thủy điện Hòa Bình tăng cao so với cùng kỳ.

Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững

(HBĐT) - Từ đầu năm đến nay, các cấp Hội LHPN huyện Lương Sơn tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ công tác Hội và 6 nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó chú trọng duy trì phong trào hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế bền vững.

Hơn 900 ha cây có múi bước vào thời kỳ kinh doanh

(HBĐT) - Diện tích cây có múi gồm cam, quýt, bưởi, chanh của huyện Cao Phong hiện có khoảng 2.060 ha. Năm nay có hơn 900 ha bước vào thời kỳ kinh doanh, dự tính sản lượng đạt 23.000 tấn. Giá trị sản xuất trung bình đạt từ 600-800 triệu đồng/ha.

Trồng rừng đạt 87% kế hoạch năm

(HBĐT) - Theo số liệu thống kê của Sở NN&PTNT, thực hiện kế hoạch trồng rừng năm 2016, hiện tại, các chủ rừng và dự án trên địa bàn toàn tỉnh đẩy nhanh tiến độ trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng trồng theo kế hoạch. Tính đến ngày 4/8, toàn tỉnh đã trồng mới 6.960 ha rừng tập trung, tăng 158 ha so với kỳ trước, đạt 87% so với kế hoạch đề ra.

Hỗ trợ kết cấu hạ tầng HTX nông nghiệp

(HBĐT) - Ông Nguyễn Văn Dư (Kỳ Sơn) hỏi: Đề nghị cho biết, chính sách của Nhà nước hỗ trợ kết cấu hạ tầng HTX nông nghiệp như thế nào?

Áp dụng mức tính tiền chậm nộp 0,03%/ngày đối với các khoản nợ thuế phát sinh trước ngày 1/7/2016

(HBĐT) - Vừa qua, Bộ Tài chính ban hành Công văn số 10315/BTC-TCT gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc T.ư đề nghị tuyên truyền các nội dung mới quy định trong Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục