Diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh tại xã Thanh Hối, huyện Tân Lạc phát triển tốt
(HBĐT) - Hoà Bình có diện tích đất lâm nghiệp 333.936 ha đã được quy hoạch thành 3 loại rừng: rừng phòng hộ 130.511,9 ha; rừng sản xuất 161.357,4 ha; rừng đặc dụng 42.066,7 ha. Năng suất và chất lượng rừng còn thấp, chưa đáp ứng được mục tiêu phòng hộ cũng như phát triển KTXH ở địa phương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát triển ngành lâm nghiệp, tăng độ che phủ của rừng; sử dụng tối đa quỹ đất lâm nghiệp có hiệu quả trong điều kiện nguồn vốn đầu tư có hạn.
Để duy trì và phát triển được vốn rừng có hiệu quả trong khi vốn đầu tư ít, ngành lâm nghiệp đã chọn giải pháp phục hồi rừng bằng khoanh nuôi tái sinh. Đây là giải pháp quan trọng nhằm phục hồi rừng trên những diện tích có rừng tự nhiên và diện tích đất rừng sau khai thác có cây tái sinh mục đích phục hồi. Trong quá trình thực hiện đã sử dụng 2 phương thức khoanh nuôi tái sinh rừng là khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên và khoanh nuôi tái sinh rừng có trồng bổ sung. Thời gian khoanh nuôi tái sinh là 5 năm, mức hỗ trợ đầu tư từ năm 1999 đến năm 2006 là 50.000 đồng/ha/năm và từ năm 2007 đến 2010 là 100.000 đồng/ha/năm. Còn khoanh nuôi tái sinh tự nhiên rừng có trồng bổ sung có mức hỗ trợ đầu tư từ năm 1999 đến năm 2006 là 1 triệu đồng/ha/6 năm và từ năm 2007 đến nay là 2 triệu đồng/ha/6 năm.
Trong giai đoạn 1999-2010, thông qua các chương trình, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, tỉnh ta đã áp dụng biện pháp khoanh nuôi tái sinh rừng có hiệu quả, đóng góp không nhỏ vào tăng tỷ lệ che phủ của rừng toàn tỉnh từ 37% (năm 1999) lên 45,7% vào năm 2010, kết quả là đã khoanh nuôi tái sinh tự nhiên 49.289,9 ha; khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng có trồng bổ sung 8.366,1 ha. Bình quân hàng năm khoanh nuôi tái sinh tự nhiên khoảng 4.107,5 ha và khoanh nuôi tái sinh rừng có trồng bổ sung khoảng 697,2 ha. Hầu hết các khu rừng sau khoanh nuôi đều thành rừng, phát huy được hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường tại địa phương và được tiếp tục đưa vào bảo vệ.
Ông Bùi Văn Chúc, Chi cục trưởng Chi cục Lâm nghiệp cho biết: Để có thành công trên, vấn đề mấu chốt là việc phân loại, lựa chọn đối tượng rừng, đất rừng và chọn loài cây trồng bổ sung để tiến hành khoanh nuôi tái sinh rừng; được xác định thông qua khảo sát thiết kế chi tiết đến từng lô, lựa chọn các biện pháp lâm sinh cho từng đối tượng khoanh nuôi tái sinh rừng để đảm bảo quá trình tái sinh và diễn thế tự nhiên phục hồi lại rừng chắc chắn thành công trên đất lâm nghiệp đã mất rừng, đáp ứng được yêu cầu kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian khoanh nuôi tái sinh. Mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng được thực hiện từ năm 2000 tại huyện Lạc Sơn đến nay phát triển tốt với cay trồng chủ yếu là lim xanh, ngoài ra còn có lim xẹt, sòi tía, dẻ, kháo, xoan đào, cò ke, đinh thối. Mô hình nếu tiếp tục được bảo vệ tốt sẽ có triển vọng phục hồi thành rừng cây bản địa.
Tuy nhiên, vẫn còn một số diện tích khoanh nuôi tái sinh không thành rừng, đặc biệt là khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng có trồng cây bổ sung và đối tượng rừng khoanh nuôi tái sinh trên đất quy hoạch rừng sản xuất. Nguyên nhân là do chọn đối tượng khoanh nuôi tái sinh rừng chưa được đảm bảo theo yêu cầu quy định, suất đầu tư hỗ trợ cho khoanh nuôi tái sinh rừng thấp nên chưa khuyến khích được chủ rừng nhiệt tình tham gia, không xây dựng được quy chế bảo vệ rừng thôn, bản hoặc thực hiện quy chế không nghiêm dẫn đến không thành rừng. Đời sống của nhân dân miền núi sinh sống trong rừng, gần rừng còn nhiều khó khăn nên vẫn sảy ra tình trạng khai thác gỗ, củi làm nguồn kiếm sống. Mặt khác, ảnh hưởng của điều kiện khí hậu, cháy rừng làm cho rừng tre, nứa bị khuy gây chết hàng loạt cũng là nguyên nhân không nhỏ làm ảnh hưởng tới khả năng thành rừng của một số diện tích khoanh nuôi tái sinh rừng.
Để phát huy được hiệu quả KT-XH và môi trường của đối tượng rừng này, một số giải pháp kỹ thuật cần tác động là: Tổ chức kiểm kê, đánh giá chất lượng rừng sau khoanh nuôi tái sinh. Diện tích khoanh nuôi tái sinh không thành rừng chuyển sang trồng rừng, diện tích thành rừng tiếp tục bảo vệ nuôi dưỡng để đạt mục tiêu KTXH và môi trường. Hoàn thiện quy chế quản lý bảo vệ rừng thôn, bản. Tuyên truyền Luật bảo vệ và phát triển rừng và các văn bản quy phạm pháp luật tới đại bộ phận người dân trong vùng. Củng cố lực lượng bảo vệ rừng cấp thôn, bản để hỗ trợ chủ rừng bảo vệ rừng theo hướng tự quản, có sự đóng góp kinh phí của chủ rừng. Xây dựng, sửa chữa bảng nội qui, biển cấm, chòi canh, tu sửa đường băng cản lửa...Hoàn thiện chính sách, cơ chế hưởng lợi cho chủ rừng khi đến kỳ khai thác rừng.
Đinh Thắng
(HBĐT) - UBND tỉnh vừa có Quyết định số 1513 QĐ-UBND về việc điều chỉnh hình thức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước thuộc tỉnh quản lý.
Bắt đầu từ ngày 1-10, Nghị định 107/2009/NĐ-CP về kinh doanh khí hóa lỏng sẽ chính thức đi vào đời sống. Việc các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp (DN) kinh doanh gas sẽ giúp lập lại trật tự trong lĩnh vực này.
Cục Thống kê Hà Nội cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng Chín của Hà Nội đã tăng 0,96% so với tháng trước.
Thông tin từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp - BSA, chương trình đưa hàng Việt về nông thôn giai đoạn 1 đã tổ chức được 46 phiên chợ tại 18 tỉnh - thành trên cả nước, doanh thu hơn 30,4 tỉ đồng.
Chính phủ một số nước ở châu Á có ngành công nghiệp xuất khẩu mạnh, như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái-lan đang thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn sự tăng giá của đồng nội tệ so với USD. Trong khi đó, chính quyền Mỹ thúc ép các nước này điều chỉnh giá trị đồng nội tệ.
(HBĐT) - Từ ngày 1/1/2011, Nghị định 51/2010/NĐ-CP của Chính Phủ về hóa đơn bán hàng và cung ứng dịch vụ có hiệu lực. Các doanh nghiệp không phụ thuộc và cơ chế xin - cho hóa đơn mà được chủ động việc tự in, tự phát hành sử dụng hóa đơn bán hàng. Để hiểu rõ về vấn đề này, phóng viên HBĐT đã có cuộc trao đổi với ông Bùi Đức Hiển, Phó Cục trưởng Cục Thuế.