Mo là danh xưng của một loại nghề nghiệp, một di sản văn hóa (DSVH) có tính nguyên hợp bao gồm hoạt động kết hợp giữa tín ngưỡng dân gian với văn hóa - văn nghệ dân gian, chỉ thực hiện trong tang lễ và một số nghi lễ tín ngưỡng, nghi lễ vòng đời của người Mường. Với mục đích là nhằm trấn an con người trước các biến động lớn khi ốm đau, chết chóc và thực hiện các nghi lễ trước khi đưa người chết trở về thế giới bên kia.
Thầy mo Bùi Văn Sịnh, xã Yên Phú (Lạc Sơn) trong lần thực hành nghi lễ mo tại Mái đá làng Vành.
Ảnh: b.m
Mo Mường là loại hình DSVH đặc biệt của người Mường, có dung lượng lớn, ảnh hưởng sâu sắc và chi phối đến mọi mặt đời sống của người Mường bao đời qua, chứa đựng những giá trị nhân văn, văn hóa, lịch sử, nhân sinh quan, vũ trụ quan, ngữ văn dân gian của người Mường. Có thể coi mo Mường như "bộ bách khoa thư dân gian” về người Mường. Mo Mường gồm 3 lĩnh vực chính cấu thành: Lời mo, diễn xướng, môi trường diễn xướng và con người thực hành diễn xướng mo, trong đó lời mo gắn liền với người diễn xướng chiếm vị trí quan trọng nhất. Chính các bài mo, kát mo, roóng mo (các chương, hồi) hay nói cách khác, các bài văn vần được dân gian truyền miệng, sử dụng làm lời khấn trong các nghi lễ tín ngưỡng, lễ cầu mạnh khỏe, đặc biệt là trong tang lễ... đã tạo nên ngôn ngữ của mo Mường.
Nhìn tổng thể, mo Mường được làm nên và kết cấu bởi rất nhiều bài văn vần truyền miệng. Khi thực hiện nghi lễ, lời mo được thầy mo xướng lên những khúc mo, chương mo theo những giai điệu nhất định, phù hợp với nội dung, mục đích mà nghi lễ đó hướng tới.
Mỗi một bản mo, dòng mo lưu giữ đều có những điểm giống hay khác nhau. Mỗi vùng Mường việc diễn xướng mo, lời mo đều có khác nhau đôi chút. Điều này chứng tỏ yếu tố dị bản, sự phong phú và đa dạng của mo. Mo Mường có 3 loại chính cùng được sử dụng là mo nghi thức, mo kể chuyện và mo nhòm.
Nghệ nhân mo là người nắm giữ các bài mo và là người trực tiếp thực hành diễn xướng mo Mường. Hiện trên địa bàn tỉnh có khoảng 200 nghệ nhân mo. Trong dân gian người Mường gọi họ rất tôn kính là các thâi mo (thầy mo), pổ mo (bố mo), ôông ậw (ông ậu)... Trong đó, danh xưng thầy mo là phổ biến hơn cả. Các nghệ nhân mo trong lịch sử cho đến ngày nay đều là những người có vai trò như điểm tựa tinh thần trong các cộng đồng người Mường trước các biến động của cuộc sống.
Nghề mo là chỉ chung những thầy mo sinh sống bằng công việc đi làm mo. Đã gọi là nghề thì phải có công cụ. Có thể chia công cụ hành nghề của thầy mo thành 2 loại: Loại thứ nhất phải nhớ trong đầu là các bài cúng, các bài mo; loại thứ hai là đồ vật được cầm, khoác lên người khi hành lễ, hay khi cần dùng trong hành nghề. Thầy mo càng có nhiều đời làm mo thì càng được dân gian tôn sùng và đánh giá cao về năng lực "pháp thuật”, dân gian Mường, còn gọi là các dòng mo. Nghề mo cũng phải học, những người có cha, chú làm nghề mo thì việc học có phần đơn giản và thuận lợi hơn vì họ được trực tiếp truyền nghề. Trang phục thầy mo Mường đặc biệt là chiếc mũ. Ở vùng Lạc Sơn, các thầy mo khi tiến hành chủ tế các nghi lễ mo trong tang lễ, họ đội chiếc mũ tạo hình hai chiếc sừng bò tót hướng về phía trước rất oai linh. Trên mũ màu đỏ và dải mũ được thêu trang trí những linh vật như rùa, rồng, phượng, chim, cá... các linh vật thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của người Mường. Túi khót của thầy mo Mường là túi vải đựng những công cụ, vật thể được cho là linh thiêng, được dùng làm vật hộ thân, là công cụ trấn trị ma quỷ trong hành nghề của mình; trong đó đồ chế tác bằng kim khí, bằng đá chiếm vị trí quan trọng, chiếm trên dưới 50% số lượng đồ có trong túi khót của các ông mo.
Trong mo chứa đựng những tinh hoa văn hóa Mường. Trong các bài văn vần, thơ, mo chứa nhiều câu chuyện cổ, truyền thuyết dân gian, thần thoại, sử thi. Các câu chuyện đó phản ánh lịch sử, giải thích sự vật, hiện tượng trong cuộc sống thời xa xưa. Đặc biệt, hệ thống tiếng Mường cổ được lưu giữ khá trọn vẹn trong mo Mường. Đây là tài sản, di sản phi vật thể vô giá của người Mường nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung. Các địa danh, tên các loài thực vật, sông, suối... trừ một số địa danh thần thoại ở trên trời, trong mường ma..., tất cả được nói đến trong mo Mường đều có thật trên thực địa vùng người Mường sinh sống. Mo Mường lưu giữ hệ thống địa danh cổ, ngày nay nhiều nơi không sử dụng nữa. Điều này rất có ích trong việc nghiên cứu địa chí vùng người Mường sinh sống. Trong mo Mường phản ánh nhân sinh quan, phản ánh mọi góc cạnh các quan niệm về cuộc sống của người Mường, quan niệm về vũ trụ 3 tầng 5 thế giới, vạn vật xung quanh..., kinh nghiệm sản xuất, lịch pháp, phân loại thực vật, kinh nghiệm ứng xử với tự nhiên... Môi trường diễn xướng mo Mường trong tang lễ cổ truyền Mường và hệ thống các nghi lễ, biểu tượng văn hóa, nhà táng, mộ... có trong tang lễ phục vụ cho diễn xướng mo, chứa đựng và phản ánh trang phục dân gian, âm nhạc dân gian (giai điệu các bài mo, nhạc lễ trong mo, lễ hội dân gian, kiến trúc dân gian...). Mo Mường cũng chứa đựng tín ngưỡng dân gian, gồm các tục thờ tổ tiên, thờ tổ nghề (thờ tổ nghề thầy mo), tục thờ người sống (các nghi lễ làm vía, có nơi gọi là mo vía), tục thờ cây (các nghi lễ làm vía Kéo Si), tục hiến sinh (mo trâu, bò, gà...).
Ngày nay, mo vẫn được người Mường trân trọng. Việc tổ chức tang lễ theo nếp sống mới, người Mường vẫn tổ chức mo cho người đã khuất. Số lượng các roóng mo được cắt giảm tối thiểu, chỉ mo những roóng cơ bản, rất cần thiết trong thực hiện các nghi lễ. Các giá trị của mo mãi còn đồng hành cùng người Mường đi tới tương lai với tư cách là một DSVH, một yếu tố nền tảng cấu thành văn hóa Mường…
Năm 2015, tỉnh Hòa Bình đón nhận bằng bảo trợ của Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam cho DSVH "Mo Mường Hòa Bình”. Năm 2016, Bộ trưởng Bộ VH-TT&DL có quyết định đưa mo Mường vào danh mục DSVH phi vật thể quốc gia. Năm 2020, mo Mường được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo chọn lựa là DSVH phi vật thể cần xây dựng hồ sơ quốc gia đệ trình UNESCO ghi danh vào danh sách DSVH phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Những tín hiệu đó càng cho thấy giá trị trường tồn của DSVH mo Mường.
(Còn nữa)
VT. (TH)
Trong thời kỳ tiền sử của Hòa Bình, nổi bật nhất và đặc trưng nhất là nền Văn hóa Hòa Bình (VHHB). Người Hòa Bình tự hào về lịch sử lâu đời của mình, là địa điểm đầu tiên được phát hiện và được mang tên của một nền văn hóa đặc trưng không chỉ cho riêng Việt Nam mà cho cả các nước Đông Nam Á và phía Nam Trung Quốc: VHHB. Từ việc khai quật các địa điểm di tích hang động tại vùng đá vôi Hòa Bình, năm 1927, nhà khảo cổ người Pháp M.Colani đã cho chúng ta biết đến một "Thời đại đá trong tỉnh Hòa Bình - Bắc Kỳ”. Đến ngày 30/1/1932, nền "VHHB” đã được Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội thừa nhận.
Hòa Bình tạo dấu ấn đối với du khách gần xa cũng bởi sự đa dạng trong lối sống, sinh hoạt và bản sắc văn hóa của các dân tộc anh em. Trên địa bàn tỉnh có 6 dân tộc chính cùng chung sống lâu đời (tổng số gần 90 vạn dân), đông nhất là dân tộc Mường chiếm 63,3% dân số; dân tộc Kinh chiếm 27,73%; dân tộc Thái chiếm 3,9%; dân tộc Tày chiếm 2,7%; dân tộc Dao chiếm 1,7%; dân tộc Mông chiếm 0,52%; các dân tộc khác chiếm 1,18%. Cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, đồng bào các dân tộc tỉnh Hòa Bình luôn đoàn kết, chịu thương chịu khó, có ý chí phấn đấu vươn lên phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, mỗi dân tộc thể hiện được bản sắc văn hoá riêng biệt, độc đáo, tạo nên nền văn hóa đa dạng, phong phú, đặc sắc và hấp dẫn trên đất Hòa Bình…
Năm 2024, Chi hội Nhiếp ảnh tỉnh Hòa Bình đã có nhiều hoạt động sôi nổi, tạo ra nhiều tác phẩm giá trị, đóng góp vào sự phát triển chung của văn học - nghệ thuật địa phương. Chi hội không ngừng đổi mới, củng cố tổ chức, tổ chức sáng tác theo nhóm, giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm để nâng cao chất lượng tác phẩm. Các nghệ sĩ nhiếp ảnh tích cực tham gia các sự kiện văn hóa, lễ hội và trại sáng tác, góp phần ghi lại những khoảnh khắc quan trọng của tỉnh.
Chùa Sim tọa lạc tại xóm Sim Ngoài, xã Hợp Tiến (Kim Bôi). Lễ hội chùa Sim khai hội vào ngày 15 tháng Giêng hằng năm. Đây là lễ hội truyền thống mang tính lịch sử lâu đời, là một trong những lễ hội lớn của huyện Kim Bôi.
Sau khi đăng cai Năm Du lịch Quốc gia 2024 thành công, Điện Biên tiếp tục tổ chức Lễ hội Hoa Ban năm 2025 với quy mô lớn nhất từ trước tới nay.
UBND huyện Lương Sơn vừa tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh đình Sấu, xã Thanh Cao.