Hợp tác xã 3TFarm (Cao Phong) ứng dụng hệ thống máy móc hiện đại trong sục rửa cam quả trước đi đưa ra thị trường.
UBND tỉnh đề ra mục tiêu: Nâng cao đóng góp của KHCN&ĐMST vào tăng trưởng kinh tế nông nghiệp thông qua các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng KHCN của các tổ chức KH&CN công lập và khu vực tư nhân. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành nông nghiệp ở mức trên 50%. Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo các quy trình sản xuất tốt (VietGAP) hoặc tương đương trở lên đạt trên 40%. Tỷ lệ kết quả các nhiệm vụ KH&CN có sản phẩm là giống, vật tư đầu vào, quy trình công nghệ, thiết bị, tiến bộ kỹ thuật..., được ứng dụng vào thực tiễn đạt trên 90% vào năm 2025 và đạt trên 95% năm 2030. Có ít nhất 60% kết quả nghiên cứu được công nhận tiến bộ kỹ thuật và áp dụng vào sản xuất; trong đó khoảng 15% kết quả nghiên cứu được đăng ký bản quyền sáng tạo, sở hữu trí tuệ. Hỗ trợ xây dựng và phát triển được ít nhất 3-5 doanh nghiệp (DN) nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có sự hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; xây dựng và phát triển 1-2 vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh. Tỷ lệ DN có hoạt động ĐMST chiếm 60% vào năm 2025 và chiếm 85% vào năm 2030.
Theo đó, UBND tỉnh đề ra 6 nhiệm vụ gồm: Đổi mới cơ chế và hình thành các thể chế thúc đẩy KHCN&ĐMST của ngành; phát triển tiềm lực KH&CN; nhiệm vụ trọng tâm phát triển KHCN&ĐMST theo các ngành, lĩnh vực (về trồng trọt; bảo vệ thực vật; chăn nuôi, thú y; thuỷ sản; lâm nghiệp; thuỷ lợi và phòng chống thiên tai; cơ điện, công nghệ sau thu hoạch; kinh tế, chính sách); triển khai một số Chương trình trọng điểm KHCN&ĐMST ngành nông nghiệp; hoạt động ĐMST trong nông nghiệp; phát triển thị trường KH&CN ngành NN&PTNT.
Để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, ngoài các giải pháp trọng tâm về truyền thông, đổi mới tư duy trong phát triển KHCN&ĐMST, cũng như tăng cường đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực KH&CN, UBND tỉnh chú trọng giải pháp về huy động nguồn lực cho phát triển KH&CN. Trong đó, tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho KHCN&ĐMST, có cơ chế kinh tế, tài chính khuyến khích DN đầu tư, tham gia mạnh hơn vào hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ. Huy động và phát huy tối đa các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, nguồn đầu tư từ DN, khu vực tư nhân, cộng đồng và nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, ĐMST, khởi nghiệp, chuyển giao phục vụ phát triển ngành nông nghiệp. Thí điểm thực hiện cơ chế hợp tác công - tư để huy động nguồn lực từ khu vực kinh tế tư nhân trong và ngoài nước trong hoạt động KH&CN.
Hỗ trợ, tạo điều kiện để các DN, các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ và chuyển giao công nghệ mới, mua công nghệ trong nước hoặc nước ngoài để phục vụ sản xuất NN&PTNT. Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ sử dụng kết quả nghiên cứu, thúc đẩy liên kết chặt chẽ giữa các DN và tổ chức KH&CN (theo Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 27/1/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030).
Kinh phí thực hiện Kế hoạch phát triển KHCN&ĐMST ngành NN&PTNT được đảm bảo từ các nguồn: Ngân sách nhà nước cấp để thực hiện kế hoạch; vốn của các tổ chức, DN tham gia thực hiện kế hoạch; tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
P.V (TH)